Lịch Sử Trà Kiệu

ÐÔI NÉT VỀ GIÁO XỨ TRÀ KIỆU

ÐÔI NÉT VỀ GIÁO XỨ TRÀ KIỆU

( PHẦN TÓM LƯỢC )

 

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

            Trà Kiệu một giáo xứ bé nhỏ, ẩn mình ở chốn nông thôn rừng núi, nhưng là một Giáo xứ được Mẹ Maria che chở một cách đặc biệt. Trà Kiệu cũng là một Giáo xứ kỳ cựu nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam.

            Trước năm 1009 thì chính địa giới của Giáo Xứ Trà Kiệu ngày nay là Kinh Ðô của Vương Quốc Chămpa tức là Chiêm Thành, và được gọi là Sư Tử Thành (Simhapura). Sau năm 1009 thì Kinh Ðô Chiêm Chúa được dời vào Ðồ Bàn (Bình Ðịnh).

 

            Do cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, nhất là từ năm 1470, sau cuộc bình Chiêm đại thắng của vua Lê Thánh Tông, dân tộc Việt Nam từ các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Tĩnh… được khuyến khích di dân vào Nam để khai hoang vỡ hóa những vùng đất do Chiêm Thành để lại.

            Và theo phả hệ của các chư tộc tại Trà Kiệu thì vào thời kỳ này (1470 – 1479) có 13 vị Thỉ Tổ theo bước chân Nam tiến của vua Lê, đã đưa vợ con gia đình vào vùng đất Chiêm Ðộng (tức vùng Trung huyện Duy Xuyên ngày nay) mà khai cơ thác thổ. Rồi sau đó lại có nhiều vị Thứ Thế Tiền Hiền vào đây tiếp tay khai phá và tạo nên một vùng đất canh tác bao la rộng lớn gần 2000 mẫu, nên sau đó mới phân cương định giới và lập xã hiệu là Trà Kiệu xã.

         Ranh giới Trà Kiệu như sau:

         – Nam khóa Tào sơn (Nam trùm núi Hòn Tàu)

         – Bắc cự Sài thủy (Bắc đạp sông Chợ Củi (Câu Lâu)

         – Ðông lâm Quế hạt (Ðông giáp khu đông Quế  Sơn) 

         – Tây chấm Tùng sơn (Tây gối núi Dương Thông)

 

            Ðến năm Thành Thái thứ 11 (1905) xã Trà Kiệu vì quá rộng lớn nên mới được chia ra làm 5 xã riêng biệt gồm có: Trà Kiệu Trung – Trà Kiệu Ðông – Trà Kiệu Nam – Trà Kiệu Tây – Trà Kiệu Thượng (gọi chung là ngũ Trà). Xã Trà Kiệu Thượng tức là xã dành cho anh em công giáo sống riêng ở trên Thành Chiêm (tức là Giáo Xứ Trà Kiệu ngày nay). Ðất đai tài sản của xã Trà Kiệu ngày trước được chia đều cho 5 xã theo số lượng nhân khẩu. Duy chỉ có nhà thờ tiên tổ (sau gọi là nhà thờ ngũ xã), và đất đai từ đường (7 mẫu, 3 sào) thì vẫn giữ nguyên để con cháu ngũ xã về niệm hương lễ bái công đức các bậc tiền bối nhân dịp xuân thu nhị kỳ…

            Trải qua bao đời biến đổi, 4 xã Trà Kiệu Ðông, Trà Kiệu Nam, Trà Kiệu Trung và Trà Kiệu Tây, đã thay đổi tên hiệu, không còn gọi là Trà Kiệu nữa. Duy chỉ có xã Trà Kiệu Thượng (tức là Giáo xứ Trà Kiệu) thì cho đến nay vẫn còn giữ tên “Trà Kiệu” thuở ban đầu.

 

II.        SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN GIÁO XỨ TRÀ KIỆU:

            Giáo xứ Trà Kiệu cách Thành phố Ðà Nẵng chừng 40km về phía Tây Nam. Trên con đường xuyên Việt Bắc-Nam (quốc lộ số 1), khi đến trạm Nam Phước (tức Thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), rẽ về hướng Tây theo tỉnh lộ 610 (đường đi khu di tích Mỹ Sơn) chừng 7km, khách hành hương sẽ đến Giáo xứ Trà Kiệu hay còn gọi là Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu.

            Giáo xứ Trà Kiệu tọa lạc trên một phần đất vuông vức, mỗi bề dài khoảng 1km, lại nằm giữa một cảnh quan thôn dã an bình và xinh đẹp. Vì trước đây Trà Kiệu là Kinh đô huy hoàng của Chiêm quốc với cảnh núi đồi sông nước rất nên thơ và tráng lệ.

                        “Ðiện các huy hoàng trong ánh nắng,

                          Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh”.

            Thế nhưng hôm nay đền đài thành quách của Chiêm quốc đã điêu tàn đổ nát, một số nền móng lâu đài đã được Trường Viễn Ðông Bác Cổ khai quật, đào bới. Một số thành lũy đã đứt nối oằn oại dưới những ngôi nhà của cư dân.

            Nếu thật chú ý chúng ta mới có thể nhận ra được một vài di tích còn sót lại nhưng không trọn vẹn, đó là :

            – Ở phía Ðông Giáo xứ có hòn Bửu Châu (hay còn gọi là Non Trược, hay Non Trọc) mà người ta tin rằng đó là kỳ đài của kinh thành. Hòn Bửu Châu án ngữ ngay sau hậu cung của Chiêm Chúa. Ngày nay Hòn Bửu Châu đã trở thành Ðền Mẹ Trà Kiệu – Trung tâm Thánh Mẫu (Hoàng cung tọa lạc ở xóm Hoàng Châu, quay mặt về hướng Ðông).

            – Ở phía Bắc là dãy thành đất chạy song song với con sông Thu Bồn, từ chân đồi Bửu Châu lên hướng Tây, đến chân núi Kim Sơn (Hòn Bằng) dài độ 1000 mét. Trên mặt thành đất này dân cư đã xây dựng nhà cửa và ngôi chợ Hàm Rồng ở vào khoảng giữa.

            – Ở phía Tây có rặng đồi Kim Sơn và dãy thành lũy chạy dọc theo con suối Hố Diêu vào phía nam dài độ 500 mét. Dãy thành này hiện là khu nhà thờ, nhà xứ, cô nhi viện, Phước viện và cư dân.

            – Ở phía Nam có dãy thành cao, rộng, chạy từ hướng Tây xuống hướng Ðông đến hồ Hoàng Châu, giáp với cổng thành phía Ðông. Dãy thành này dài trên một kilômét và hiện nay là khu dân cư thuộc phái nam của giáo xứ.

            Tại giáo xứ Trà Kiệu hiện nay còn có một số địa danh quen thuộc, mà chúng ta cần biết đó là : Ðồi Bửu Châu, Ðồi Kim Sơn, Hàm Rồng, Hòn Gành, Bến Giá, Hòn Ấn…

            * Bước đầu truyền giáo :

            Hiện nay chúng ta không thể biết chính xác là vào thời điểm nào “Tin Mừng” được rao giảng tại Trà Kiệu, và vị giáo sĩ truyền giáo nào đã đặt chân đến Trà Kiệu trước tiên.

            Theo một số sử gia thì trước khi các linh mục Dòng Tên do Cha Buzomi dẫn đầu, đến Hội An để chính thức tổ chức công cuộc truyền giáo ở Ðàng Trong (1615), thì đã có các linh mục dòng Phanxicô đến truyền giáo tại Hội An và các vùng phụ cận. Và sử liệu cũng có ghi là vào năm 1558, một linh mục dòng Phanxicô đã rửa tội cho bà chị quan trấn thủ Quảng Nam với thánh hiệu là Phanxica (Bà Phanxica là chị của quan trấn thủ Quảng Nam, là con của Chúa Nguyễn Hoàng). Một điều khác là sử liệu cũng cho chúng ta biết là Trà Kiệu đã được các Cha dòng Phanxicô cai quản cho đến khoảng năm 1810 mới bàn giao lại cho các Linh mục thừa sai  Hội Truyền Giáo nước ngoài Ba-lê (MEP). Hơn nữa Hội An là cửa ngõ của Trà Kiệu, vì trước đây Hội An, Cửa Ðại (Chiêm) là cửa ra vào kinh đô Trà Kiệu của Vương Quốc Chàm (Champa). Cho mãi đến thời kỳ Chúa Nguyễn quản trấn Quảng Nam, thì Trà Kiệu vẫn là nơi giao lưu buôn bán phồn thịnh với Hội An nhờ dòng sông Thu Bồn, Bà Rén. Trà Kiệu còn là khu dân cư đông đúc trù phú nhất tỉnh (nhất Trà Kiệu, nhì La Qua, ba Tú Tràng…) là nơi có nhiều danh lam thắng cảnh, là kinh đô của Chiêm quốc (Sư tử Thành) có phong cảnh nên thơ và trữ tình. Thuyền bè buôn bán, ngao du, từ Hội An lên Trà Kiệu, Thu Bồn rất tấp nập. Kể cả thuyền rồng của các Chúa Nguyễn cũng thường xuyên lên xuống, và thường ghé lại Trà Kiệu nên có địa danh “Bến giá” (để cho thuyền rồng nhà Chúa đậu lại).

            Do hoàn cảnh và điều kiện thuận lợi như thế, chúng ta có thể nghĩ rằng : Trà Kiệu đã được ghi vào lược đồ truyền giáo của các Linh mục dòng Phanxicô rất sớm. Ngoài Hội An và vùng phụ cận thì Trà Kiệu có thể là nơi các Linh mục dòng Phanxicô đặt chân lên sớm nhất. Tuy nhiên đây cũng là bước khởi đầu, chỉ có tính cách giao lưu thăm dò chưa được tổ chức chu đáo. Phải đợi cho đến khoảng năm 1628 – 1630 Tin Mừng mới được bén  rể và phát triển tại Trà Kiệu. Giáo xứ sơ khai được hình thành, qua sự kiện một số gia đình con cháu trong xã (Trà Kiệu), lên sống riêng biệt ở trên Nội Thành Chiêm để tạo lập giáo đường mà đọc kinh cầu nguyện, không còn tham dự lễ bái ở Ðình thờ tổ tiên nữa.

            * Giai đoạn từ 1630 đến 1862

            – Thời gian thành lập Giáo xứ :

            Về việc thành lập Giáo xứ Trà Kiệu, chúng tôi căn cứ vào một số tư liệu gần đây như tập “Nguyên Trà Kiệu ngũ xã phong tặng tiền hiền sự tích”… và một số tư liệu khác, thì Giáo xứ Trà Kiệu có thể được hình thành vào khoảng năm 1630.

            Giai đoạn này cũng rất ít tư liệu và không rõ ràng, cho mãi đến năm 1862, là năm mà các sinh hoạt của Giáo xứ còn được lưu lại (như Sổ Rửa tội, bút tích của các Cha Quản xứ…)

            Trước hết là tập “Nguyên Trà Kiệu ngũ xã phong tặng Tiền Hiền sự tích Chủ Văn bảng tổng hợp Nhất Quyển” được thiết lập vào năm Khải Ðịnh nhị niên (1917) tại Trà Kiệu ngũ xã, do Lý trưởng của 5 xã Trà Kiệu lúc bấy giờ (Trà Kiệu Thượng – Trung – Tây – Nam – Ðông) ký nhận và đóng dấu, được Chánh tổng Mậu Hòa Trung ký tên và đóng dấu xác thực, đồng thời được con cháu của các chư tộc ký nhận. Các bảng báo trình này đã được nhà vua (Khải Ðịnh) phê duyệt, và ban sắc phong công đức.

            Nội dung tư liệu này có 2 phần :

            – Phần đầu là phần do chính quyền sở tại Lý trưởng báo trình chung về công đức của các vị tiên tổ đã dày công khai hoang vỡ hóa, chiêu dân lập ấp, để xây dựng nên xã Trà Kiệu Thượng (tức Giáo xứ Trà Kiệu ngày nay). Theo bảng kê khai thì có 11 chư tộc, trong đó có 7 tộc tiền hiền từ thời Lê Hồng Ðức và 4 tộc hậu hiền từ thời Gia Long.

            * 7 tộc tiên tổ thời Lê Hồng Ðức ghi theo thứ tự như sau:

                  1.      Lưu Văn Tâm

                  2.      Nguyễn Thanh Cảnh

                  3.      Nguyễn Quang Hoa

                  4.      Nguyễn Ðăng Ứng

                  5.      Ðinh Công Triều

                  6.      Lê Văn Càng

                  7.      Nguyễn Viết Bỉnh

            * 4 tộc hậu hiền từ thời Gia Long ghi theo thứ tự như sau :

                  8.      Phạm cảnh Tộc

                  9.      Nguyễn văn Tộc

                  10.    Trần Tộc

                  11.    Ðoàn công Tộc

            Các vị tiền hiền hậu hiền Trà Kiệu Thượng đã khai canh khai khẩn được 221 mẫu ruộng, cả công tư điền thổ, và thứ thế sinh hạ nhơn đinh tráng lão 157 người.

            – Trong phần thứ hai là 11 bảng kê khai công đức Tiền hiền và phả hệ chư tộc cũng như sinh hạ kế thế của 11 chư tộc kể trên. Các bảng kê khai này do chính con cháu trong tộc họ mình tự đứng ra kê khai.

            Theo bản khai trình thì có 7 vị tộc tổ của xã Trà Kiệu Thượng (Giáo xứ Trà Kiệu) trong đó có 5 vị nguyên là con cháu của 13 vị thủy tổ khai cơ tiền hiền từ thời Hồng Ðức (Lê Thánh Tông, 1470 – 1479) : Lưu Văn Tâm, Nguyễn Thanh Cảnh, Nguyễn Quang Hoa, Nguyễn Ðăng Ứng và Ðinh Công Triều. Họ là những người địa phương, đã định cư tại Trà Kiệu từ trước kia và nay vì theo đạo Chúa nên tách ra, lên ở riêng trên Nội Thành Chiêm.

            Còn 2 vị tộc tổ Lê Văn Càng và Nguyễn Viết Bỉnh thì đã có đạo rồi nhưng ở nơi khác cùng đến (thời Lê Thần Tông) ở chung với 5 vị tổ mới theo đạo. Tất cả 7 vị đến lập cư tại Nội Thành Chiêm, cùng thuộc bổn xã Trà Kiệu, để sinh sống, xây dựng nguyện đường để đọc kinh cầu nguyện. Ðoạn văn trong tờ khai trình đã viết :

            “Chi Lê Triều Thần Tông niên gian, dân xã chư tộc tiên tổ thủy tổ Lưu Văn Tâm, Nguyễn Thanh Cảnh, Nguyễn Quang Hoa, Nguyễn Ðăng Ứng, Ðinh Công Triều, Lê Văn Càng, Nguyễn Viết Bỉnh (do Lê văn, Nguyễn viết nguyên phụng Thiên Chúa giáo) tòng Thiên Chúa giáo, biệt lập giáo đường lễ sở tại bổn xã nội thành xứ:.

            Nghĩa là : “Ðến đời Lê Thần Tông (1619 – 1643) có các tộc tổ của xã là : Lưu Văn Tâm, Nguyễn Thanh Cảnh, Nguyễn Quang Hoa, Nguyễn Ðăng Ứng, Ðinh Công Triều, Lê Văn Càng, Nguyễn Viết Bỉnh (vì Lê văn, Nguyễn viết nguyên đã thờ phụng Thiên Chúa) theo đạo Công Giáo, nên lên xây dựng Thánh đường riêng biệt để lễ bái, tại nội thành Chiêm, cùng thuộc bổn xã”. Chữ “Tòng Thiên Chúa giáo” ở đây là dành riêng cho 5 vị ở trên.

            Ðồng thời chúng tôi cũng sưu tìm được một trang thủ bút quý hiếm của Linh mục Lalanne (cố Lân), Cha quản xứ Trà Kiệu (từ năm 1922 – 1938) về việc chính thức công nhận các vị tiền hiền của Giáo xứ Trà Kiệu. Ðó là bản viết tay của Linh mục Joseph Lalanne, xác nhận về các vị “Tiền hiền làng Trà Kiệu”, có chữ ký và con dấu của Lý trưởng Nguyễn Thanh Hương xác thực. Bản xác nhận này được viết vào ngày 2 tháng 7 năm 1925 tại Giáo xứ Trà Kiệu và có nội dung như sau : (xem thêm bản gốc)

                        “Tiền hiền làng Trà Kiệu là :

  1. 1.            Lưu Văn Tâm.
  2. 2.            Nguyễn Thanh Cảnh.
  3. 3.            Nguyễn Quang Ba (Hoa).
  4. 4.            Nguyễn Ðăng Ứng.
  5. 5.            Ðinh Công Triều.
  6. 6.            Lê Văn Càng.
  7. Nguyễn Viết Bỉnh”.

            Các đấng ấy lập sở làng Trà Kiệu từ năm 1630 đến 1640 đời vua Lê Thần Tông (1619 – 1943). Nhà thờ trước hết được xây dựng ở vườn ông thầy Long, sau đời Ðức Cha Lợi làm Cha sở Giáo xứ Trà Kiệu thì dời qua chỗ đương còn…

            Giáo xứ Trà Kiệu chắc chắn đã được rao giảng Tin Mừng trước khi các vị tiền bối của chúng ta lên ở riêng trên Nội thành Chiêm để giữ đạo (1630). Thời điểm rao giảng Tin Mừng ở Trà Kiệu chậm nhất cũng là vào thời kỳ 1615 đến 1628. Vì theo như Cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhode) cho biết thì vào năm 1625 việc rao giảng Tin Mừng đã được loan báo khắp các khu dân cư lớn ở xứ Nam. Cha ghi như sau : “Năm 1625 đạo Công Giáo được rao giảng khắp các xứ lớn ở miền Nam. Chúng tôi (Cha Ðắc Lộ) tất cả là 10 Cha Dòng. Công việc thật vất vả, nhưng chúng tôi không lấy gì làm nặng nhọc, vì Ðấng mà chúng tôi phụng sự đã nâng đỡ chúng tôi tỏ tường, giúp chúng tôi thu hoạch được những kết quả vượt khả năng và ước muốn của chúng tôi…

            Sau khi 7 vị sáng lập Giáo xứ Trà Kiệu đã tách ra ở riêng trên nội thành Chiêm, thì công việc đầu tiên của các vị là xây dựng “Nhà nguyện” để cùng đọc kinh cầu nguyện chung với nhau. Chúng ta cũng không biết chính xác là nhà nguyện ban đầu này được xây dựng từ năm nào, nhưng theo ông Cao Ðức Phong (Câu kinh) thì đã quả quyết là “có từ lâu… và biết rõ một điều là nhà thờ đã có trước thời 1681 – 1682”. Và cũng theo khẩu truyền, thì ngôi nhà nguyện đầu tiên này được xây dựng tại phái (khóm) Ðông trên khu đất vườn ông Trương Tạ, và hiện nay là khu vườn nhà ông thầy Long (Xem thêm phần Thánh đường Trà Kiệu).

 

III.NHỮNG VỊ LINH MỤC QUẢN XỨ NỔI TIẾNG

1.  Linh mục Thừa sai Louis Maria Galibert (tên Việt Nam là Cố Lợi) – Từ 1869 đến 1877 – Linh mụcQuản xứ thứ 7

            Linh mục Galibert (Lợi) đến Nam kỳ (Basse Cochinchine) vào tháng 11 năm 1868. Ngày 30/12/1868 Ngài ra Giáo phận Quy Nhơn và được Ðức Cha Trí gởi đến Giáo họ Xoài thuộc Giáo xứ Gia Hựu (Bình Ðịnh) để học tiếng Việt.

            Sau đó Cha được bài sai về quản xứ Trà Kiệu và khu vực tỉnh Quảng Nam, vì hơn 20 năm qua (1845-1869) tình hình tại Quảng Nam rất “khó khăn” không một Thừa sai nào có thể đến được.

            Ngài được may mắn là đến được Trà Kiệu một cách bình an vào khoảng cuối tháng 9 năm 1869. Lúc bấy giờ toàn tỉnh Quảng Nam còn có 4.000 giáo dân với 2 Linh mục bản xứ, vài thầy giảng và 2 dòng Mến Thánh Giá. Riêng Trà Kiệu còn 700 giáo dân.

            6 tháng đầu tiên Ngài dành để đi thăm tất cả giáo dân ở trong khu vực, và sau đó là chuẩn bị xây dựng lại nhà thờ Trà Kiệu. Trong thư gửi cho gia đình, viết tại Trà Kiệu ngày 01/3/1870, có đoạn Ngài viết : “Cho đến nay, việc thăm viếng bổn đạo thân yêu đã chiếm hết cả thời giờ. Việc lo lắng hiện nay là chuẩn bị xây dựng ở Trà Kiệu một ngôi thánh đường. Trà Kiệu là địa sở chính của cả vùng, đây là một làng có đến 700 linh hồn, nơi con thường trú…”

            Tháng 12/1870 Ngài được gia đình gởi cho ba bốn trăm quan để xây dựng ngôi thánh đường mới theo kiểu Âu Châu (xem chi tiết ở mục Thánh đường Trà Kiệu), đồng lúc Ngài cũng được tin đau buồn là thân sinh của Ngài vừa mới qua đời. Ngài đau buồn và khóc rất nhiều. Trong thư an ủi mẹ viết từ Trà Kiệu ngày 17/12/1870 Ngài đã viết :

            “Giáo dân yêu dấu của con thấy con khóc và biết được nỗi khổ đã làm con rơi nước mắt. Con nới với họ rằng, cha con, người cha mà con đã xa lìa chỉ vì yêu thương họ (giáo dân) đã qua đời. Họ cũng bắt đầu khóc và an ủi con : Cố ơi, thôi đừng khóc nữa. Họ nói với con trong nước mắt : Thân phụ của Cố vừa mất quả là người tốt lành, bởi vì Ngài đã bằng lòng để một người con yêu quý trẩy đi phương xa. Ngài đang ở trên trời, và nếu Ngài chưa ở chốn ấy, thì bổn phận của chúng con, là nguyên nhân gây nên sự chia lìa ấy, phải giúp Ngài đến Thiên đàng. Họ đã cầu nguyện cho con, cho cha mẹ và gia đình trong một tháng trời…”.

            Sau cái tang đó, Chúa đã ban cho Cha một nguồn an ủi lớn lao là có một làng bên lương (làng Tân An) đã xin trở lại đạo.

            Tháng 4 năm 1871, Ðức Cha Sohier, Giám mục Bắc Ðàng Trong có ghé lại thăm Trà Kiệu, thăm cố Galibert. Chính Ðức Cha Sohier đã viết về Ngài : “Tôi được hân hạnh đến thăm Cha Galibert. Ngài sống một mình cách biển 99 dặm, như một Thánh khổ tu, một Tông đồ thật sự. Tôi đã nhận được nơi Ngài lòng hiếu khách tuyệt vời”.

            Cùng trong năm này, có một người ngoại giáo vừa mất vợ, có một đứa con gái út độ 2 tuổi mà anh ta không thể nuôi được, nên đã bán nó cho Cố Galibert làm em nuôi, với giá 3 quan (tương đương một cái nhà bình thường). Cha đã nuôi nó và đặt tên nó là Léonie (tên của cô em gái Cha).

            Ðầu năm 1872, Ðức Giám mục Giáo phận (Ðức Cha Trí) đã đến thăm Trà Kiệu. Ngài đã lưu lại Trà Kiệu gần 3 tháng và cùng với Linh mục Galibert đi thăm tất cả các xứ đạo. Ðức Cha Trí rời Trà Kiệu trước Lễ Phục Sinh (1872) 15 ngày. Lễ Phục Sinh năm đó, Cố Galibert đã cử hành nghi thức Thánh lễ trọng thể. Chiều Phục Sinh, Cha đã tổ chức rước kiệu Ðức Mẹ từ 1 giờ chiều cho đến mặt trời lặn. Trong năm 1872 này, Cha cũng tổ chức lại tu viện Mến Thánh Giá tại Trà Kiệu. Trước đó có 5 nữ tu Mến Thánh Giá ở Hội An tản cư lên cư trú tại Trà Kiệu và có một số tập sinh địa phương, nhưng cuộc sống tu trì chưa được tổ chức chu đáo, nên Cố Lợi đã cử một bà nhất lãnh đạo và điều hành công việc, nhất là điều hành Cô nhi viện Trà Kiệu. Tu viện chính thức đi vào hoạt động có nề nếp, có tổ chức với 1 bà nhất và 16 nữ tu.

            Khoảng cuối năm 1872, Giáo xứ Trà Kiệu lại bị chao đảo và lo sợ một cơ bách hại mới. Nhà vua đã ra lệnh phải kiểm tra chính xác tất cả giáo dân trong cả nước. Nguyên nhân chính là do Jean Dupuis, rồi Francis Garnier cố tình vi phạm luật lệ của nước ta, để lấy cớ chiếm cứ Bắc kỳ. Người Pháp đã kêu gọi người Công giáo hỗ trợ cho công việc xâm lăng của họ. Mặc dù các Giám mục phản đối âm mưu xâm chiếm đó và từ chối hợp tác, nhưng các Văn thân lại nghi ngờ người Công giáo sẽ làm loạn nên áp lực buộc nhà vua phải “sát tả”. Cố Lợi rời Trà Kiệu để về Tòa Giám Mục tĩnh tâm và báo cáo tình hình với Ðức Cha Trí. Sau khi tĩnh tâm xong, Ngài gặp Ðức Cha Trí tường trình mọi việc, rồi vội vã quay trở lại Trà Kiệu để cùng chung số phận với giáo dân của Ngài. Trong tập nhật ký Ngài đã ghi những lời tâm huyết như sau :

“Gò Thị – Tòa Giám Mục ngày 20/01/1873

            Sau cuộc cấm phòng này tôi đã quyết tâm trở thành một Thừa sai thánh thiện. Ba nhân đức mà tôi cần là : Hiền lành – Khiêm nhượng và hoàn toàn tuân phục ý Chúa. Nhờ đó mà tôi được bình an nội tâm. Discite a me quia mitis sum et humilis corde… Fiat voluntas tua… (Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Xin vâng ý Cha). Lạy Mẹ Maria Nữ Vương Các Thánh Tuẫn Ðạo, xin đến cứu vớt chúng con. Lạy Cha, con xin phó dâng linh hồn con trong tay Cha. Lạy Thánh Phanxicô đệ Salê xin cầu cho con”.

                                                                    Louis Galibert

                                                                          (ký tên)

 

            Sau đó Cha trở về lại Trà Kiệu để chờ phúc Tuẫn đạo. Trong suốt 6, 7 tháng của năm 1873, giáo dân Trà Kiệu không còn thiết gì đến việc làm ăn đồng áng, chỉ lo phần hồn để chờ ngày hy sinh cho Chúa. Tháng 7 năm 1873 Cố Lợi cũng đã viết bức thư vĩnh biệt người mẹ yêu quý của mình như sau :

            “Phần con, mẹ đừng lo lắng gì. Ðã hơn 6 tháng nay, có biết bao lần con hồi hộp chờ ngày Tuẫn đạo, vừa lo mà vừa mừng. Mẹ yêu, mẹ thấy đó, Thừa sai thì ham được Tuẫn đạo. Họ ham muốn nhất là được đón nhận ơn Thiện triệu thánh thiện Tuẫn đạo này. Ðây là con đường về trời chắc chắn và ngắn nhất.

            Xin mẹ hãy cầu cho con, cho giáo dân của con và cho những người bách hại con.

            Và sau cùng xin vĩnh biệt mẹ, mẹ rất đỗi yêu mến… và trên trời… và trên trời… và trên trời… nếu Chúa muốn.

            Con của mẹ – Con yêu mẹ – Louis Galibert”.

            Thế nhưng vào ngày 15/3/1874, theo tinh thần điều 9 của Hòa ước 1874 (có 20 điều) vua Tự Ðức đã ra lệnh cho phép thần dân được tự do theo đạo và giữ đạo.

            Mọi người trong giáo xứ vui mừng hoan hỷ, nhưng cuộc sống kinh tế lại kiệt quệ vì cả năm qua chả ai tha thiết gì đến việc làm ăn nữa. Cố Lợi mới tìm mọi cách giúp đỡ cho giáo xứ phục hồi lại cuộc sống kinh tế. Trong thư gửi cho mẹ, Cố Lợi đã viết :

            “Mẹ hiền ơi ! Mẹ yên tâm. Hòa ước đã được ký tại Huế, giáo dân của con được cứu khỏi hiểm nguy, con tin đó là sự phù hộ của Ðức Trinh Nữ Maria. Phần con, khi con viết thư cho mẹ, con cứ nghĩ là các quan và Văn thân đã gởi con về trời bằng con đường Tuẫn đạo.

            Mẹ hiền ơi ! Mẹ hiểu và biết rõ nơi đáy lòng con, con quý con dao văn thân hơn sự bình yên này. Chúa đã không ban cho con ơn này thì xin vâng ý Chúa”.

            Sau Hòa ước 1874, Tòa Giám mục Quy Nhơn đã tăng cường thêm Thừa sai Vivier đến phục vụ khu vực phía bắc Quảng Nam, còn Cố Lợi chỉ cai quản Trà Kiệu và khu vực phía Nam tỉnh Quảng Nam.

            Bớt được một phần gánh nặng, trong 2 năm sau cùng, 1876-1877 Cố Lợi lại dồn hết nỗ lực cho công cuộc truyền giáo, nhất là lo cho Hội thánh nhi.

            Ngài đã viết thư kể với mẹ Ngài về các chuyến đi mục vụ rất gian nan nhưng phấn khởi như sau :

            “Con thường đi ngựa hoặc đi ghe, đôi lúc đi bộ nếu gặp đường xấu. Ở đây nhiều sông nhưng chưa có cầu, nếu không sẵn ghe thì cứ nhào xuống nước bơi qua, áo quần ướt thì sau đó sẽ khô ngay. Con muốn mẹ hình dung ra con đang mặc quần lót xăn đến gối, đi chân đất, dọc các bờ ruộng chật hẹp. Trang bị một cây gậy dài để chống lại rắn tràn đầy ở xứ này, khỏi bị chúng cắn. Con coi bộ giống như một tên cướp miền Calabre hơn là một thừa tác nhân hòa bình. Các chuyến đi rất lâu dài, phải qua đến 20 làng lương dân mới gặp một họ đạo. Tuy dầu đường gian nan nhưng khi thấy xuất hiện phía trước con một đoàn người áo quần sặc sỡ, và được thầy giảng báo cho biết là các chức họ đến đón mình, thì quả thật là con quá vui mừng sung sướng”.

            Bên cạnh công tác mục vụ tại các Giáo họ, Cố Lợi lại quyết tâm thực hiện một nhà Cô nhi rộng rãi khang trang để có thể nuôi dưỡng các em, vì trong thời gian dịch bệnh đói kém này, nhiều trẻ em bị bỏ rơi, mà Phước viện không đủ chỗ nuôi dưỡng. Cha mua một khu đất vuông vức sát bên hông nhà thờ (khu Cô nhi hiện nay) để xây dựng Cô nhi viện. Ngài viết cho mẹ rằng : “Con đang bận thành lập một Viện mồ côi mới, và con đã mua được một khu đất tuyệt đẹp với giá 500 ligatures. Vì phải có đất rộng mới có thể xây cất được 2 hoặc 3 khu nhà nuôi dưỡng các em mồ côi nhỏ bé. Nói với mẹ như vậy, để mẹ biết rằng tại giáo điểm này, con rất lo cho Hội thánh nhi” (26/6/1876). Có lẽ đó cũng là công việc mục vụ cuối cùng mà Cố Lợi đã để lại cho Giáo xứ trà Kiệu trước khi Ngài ra đi.

            Ðầu năm 1877, Cố Lợi được chuyển về Tòa Giám mục Quy Nhơn và đảm nhận chức Tổng Ðại diện Giáo Phận. Hai năm sau (1879) Ngài lại được phong chức Giám mục để thay thế Ðức Cha Eugenio Charbonnier (Trí). Ngài cai quản Giáo phận Quy Nhơn cho đến năm 1883.

2. Linh mục Thừa sai Jean Baptiste Bruyère (tên Việt Nam là Cố Nhơn) – Quản xứ Trà Kiệu từ năm 1877 đến năm 1912 – Linh mục Quản xứ thứ 8.

            Sau khi Linh mục Galibert Lợi thuyên chuyển về Quy Nhơn thì Bề trên lại cho Linh mục Jean Baptiste Bruyère (Cố Nhơn) về quản xứ Trà Kiệu. Ngài đến Trà Kiệu năm 1877 và cai quản Giáo xứ Trà Kiệu gần suốt 40 năm. Ngài là một Linh mục quản xứ Trà Kiệu lâu dài nhất, và trong thời kỳ ngài làm Cha quản xứ đã xảy ra một biến cố vô cùng đặc biệt đó là cơn giáo nạn Văn Thân và sự kiện Ðức Mẹ hiện ra.

            Cố Nhơn là một Linh mục thừa sai Ba lê. Ngài thuộc xứ Savoie (Pháp), tinh thần truyền giáo rất nhiệt tình, đời sống đạo đức rất mẫu mực, nhất là có lòng sùng kính Mẹ Maria. Ngay những ngày đầu mới về cai quản Giáo xứ, ngài đã bắt tay vào công cuộc truyền giáo, đem Tin Mừng Cứu độ đến cho muôn dân. Ngài đã không quản ngại gian nan khổ cực, có lúc phải trèo đèo lội suối, đi bộ vài ba ngày đường để đến những vùng cao vùng xa quanh Giáo xứ mà rao giảng Tin Mừng. Nhờ tinh thần nhiệt tình, bản tính hiền hòa vui vẻ, lòng đạo đức sâu xa mà ngài đã gầy dựng được nhiều chi họ lẻ ở xa, như La Tháp, Hoằng Phước, Phú Nhuận…

            Ngài là một Linh mục rất thông minh lanh lẹ, có óc tổ chức và khôn ngoan. Ngài luôn sống trong sự phó thác và tin tưởng vào Mẹ. Có lẽ nhờ đó mà Thiên Chúa, qua tay Mẹ Maria, đã cứu Ngài cũng như con cái của Ngài, thoát khỏi cơn sóng hủy diệt của Văn Thân vào năm 1885. Với 370 tráng đinh không có vũ khí, chỉ có giáo mác tự rèn, thì làm sao có thể chống cự lại với 10.000 quân Văn Thân, có vũ khí có tổ chức, nếu không có sự cứu giúp của Thiên Chúa và Ðức Mẹ Maria. (Bruyère fut attaqué par 10.000 rebelles… – Compte Rendu de Missions Etrangères 1885).

ÐỨC MẸ HIỆN RA TẠI TRÀ KIỆU

“Cứu rỗi dân Trà ơn Thập Giá,

Phù trì giáo hữu lộc Mân Côi”

(Cảm tác của nhà thơ Lê Quý Long đề tặng Trà Kiệu)

 

            Như chúng ta đã biết, sau khi vua Tự Ðức mất, hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lạm dụng quyền hành gây nhiều chuyện đau thương. Năm 1885 tức là năm Ất Dậu, sau khi hộ giá vua Hàm Nghi ra Quảng Trị, thì Tôn Thất Thuyết mới ra hịch Cần Vương (Cần Vương là hết sức hết lòng phò vua). Hưởng ứng hịch Cần Vương, phong trào Văn Thân nổi lên khắp nơi với khẩu hiệu là “Bình Tây Sát Tả” tức là đánh đuổi quân Pháp và giết sạch Kitô giáo (Tả đạo). Suốt trong hai thế kỷ qua Giáo Hội Công giáo Việt Nam cũng đã trải qua nhiều thời kỳ cấm cách bắt đạo rất khốc liệt, nhưng không có năm nào mà “máu con nhà cóđạo”chảy ra nhiều như năm 1885 này. Riêng tại khu vực miền Trung số giáo dân bị sát hại bằng nhiều cách lên đến năm sáu chục ngàn người. Trong địa phận Quy Nhơn (kể cả địa phận Ðà Nẵng ngày nay) có 200 họ đạo hoàn toàn bị tiêu diệt chỉ có giáo xứ Phú Thượng và Giáo xứ Trà Kiệu là thoát khỏi sự hủy diệt tàn khốc đó. Sau biến cố 1885, khi tình hình đã lắng xuống thì Linh mục thừa sai Geffroy, đồng sự với Linh mục quản xứ Bruyère Nhơn, đã đến thăm Trà Kiệu và ngài đã ở lại đây trong vòng 3 tháng để tìm hiểu tường tận sự kiện đặc biệt quan trọng là tại sao Giáo xứTrà Kiệu thoát được cuộc bao vây tấn công của quân Văn thân. Ngài đã trực tiếp nghe chính Linh mục quản xứ Bruyère Nhơn, cũng như những người trực tiếp chiến đấu kể lại tỉ mỉ từng ngày một, suốt trong 21 ngày đêm bị bao vây tấn công ở Trà Kiệu. Sau đó Linh mục Geffroy đã viết một bài tường thuật đầy đủ và chính xác. Bài này được đăng trên tuần báo “Missions Catholiques” ở Paris (nước Pháp) vào các ngày 3, ngày 10 và ngày 17 tháng 9 năm 1886 dưới đầu đề là : “Une Page de la Persécution enCochinchine” (xem nguyên bản dịch ở phần phụ lục).

            … Hôm đó vào ngày 1 tháng 9 năm 1885, quân Văn thân thình lình kéo đến bao vây Giáo xứ Trà Kiệu. Họ chiếm giữ bốn mặt một cách nghiêm nhặt, không cho giáo dân Trà Kiệu có thể chạy thoát được…

            Sau 8 ngày bao vây và tấn công mà không tiêu diệt được Giáo xứ Trà Kiệu theo như họ dự định, nên vào ngày 9 tháng 9 năm 1885, quân Văn thân mới quyết định đưa súng thần công về tăng cường, vì trước đây họ nghĩ là không cần đến súng thần công, nên không đưa đến. Các khẩu thần công này được kéo về và đặt ở lưng chừng đồi Kim Sơn (Hòn Bằng) và ở đồi Bửu Châu.

            Sáng ngày 10 tháng 9 năm 1885, họ bắt đầu bắn ồ ạt xuống nhà thờ, nhà xứ. Những trận đại pháo khủng khiếp nổ vang dội cả tỉnh. Nhưng lạ thay, không một quả nào rơi đúng mục tiêu. Sang ngày 11 tháng 9 năm 1885, quân Văn thân lại càng quyết tâm bắn phá dữ dội hơn. Nhưng sau những trận mưa đạn pháo, nhà thờ nhà xứ vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có một quả rơi trúng phía cuối nhà thờ, nhưng không gây thiệt hại gì. Mỗi ngày số đạn đại bác bắn vào nhà thờ nhà xứ ước chừng 500 quả. “Các sĩ quan Pháp trên chiếc tàu chiến neo ở phía nam cảng Ðà Nẵng, đã nghe và đếm được chỉ trong một ngày chừng 500 quả đại bác bắn vào Giáo xứ Trà Kiệu” (De l’unique navire de guèrre immobilisé au sud du port de Tourane, à 25 km, les officiers Francais entendirent et comptèrent, en un seul jour, environ cinq cents coups de canon tirés sur la chrétienté de Trà Kiệu). (Nécrologe du P. Bruyère. P. 455, L.37-39). Hơn nữa những khẩu đại bác này được đặt ngay tại lưng chừng đồi Kim Sơn, chỉ cách nhà thờ, nhà xứ chừng 80 mét, và giao cho một vị cựu quan thiện nghệ điều khiển. 

            Suốt ngày hôm đó và cả ngày hôm sau (ngày 10 và 11-9-1885) giáo dân Trà Kiệu và cả Cha quản xứ (Linh mục Bruyère Nhơn) đều nghe rất rõ ràng là quân lính Văn Thân ở trên đồi Kim Sơn không ngớt tranh cãi với nhau : “THẬT LẠ LÙNG, CÓ MỘT NGUỜI ÐÀN BÀ LUÔN ÐỨNG TRÊN NÓC NHÀ THỜ. BÀ RẤT ÐẸP, MẶC ÁO TRẮNG, MÀ BẮN KHÔNG TRÚNG”. Chính viên quan xạ thủ, là một cựu binh rất sành sử dụng súng thần công, cũng đã thú nhận : “TÔI MUỐN NHẮM BẮN MỘT BÀ ÐẸP, MẶC ÐỒ TRẮNG. ÐỨNG TRÊN NÓC NHÀ THỜ. TẤT CẢ ÐI QUÁ CAO TRỪ CÓ MỘT QUẢ.”

            Khi nghe họ nói với nhau như vậy, Cha quản xứ và giáo dân Trà Kiệu tin là Ðức Mẹ đã hiện ra, các ngài cố nhìn lên nóc nhà thờ nhưng không ai được nhìn thấy Ðức Mẹ. Theo khẩu truyền được lưu lại cho đến nay thì có hai người được nhìn thấy Ðức Mẹ đó là bà Nguyễn Thị Chỉnh và cháu là bà Phạm Thị Nhã. Bà Nguyễn Thị Chỉnh vợ của ông Nguyễn Thanh Ðồng. Bà Chỉnh có được hai người con là Nguyễn Thanh Chương và Nguyễn Thanh Quỳ. Còn bà Phạm Thị Nhã là con ông Phạm Thơ vợ của ông Lê Văn Kiệm.

            Trong bài tường thuật tỉ mỉ của mình, Linh mục Geffroy đã viết như sau : “Có phải Ðức Trinh Nữ đã hiện ra hay không ? Tôi không dám loan báo một sự việc hệ trọng như thế. Nhưng điều chắc chắn là quân Văn Thân (những người lương) trong hai ngày này, họ không ngừng lập đi lặp lại rằng: họ đã thấy một người đứng trên nóc nhà thờ. Lúc thì họ kính trọng Bà và gọi là MỘT BÀ ÐẸP MẶC ÐỒ TRẮNG, lúc thì họ nguyền rủa, tức giận vì không sao bắn trúng bà. Giáo dân khi nghe họ nói thế cũng cố nhìn lên nóc nhà thờ, cả Cha quản xứ nữa, nhưng không ai được nhìn thấy “Ðức Mẹ”.

            (Nguyên văn : “Etait ce donc une apparition micraculeuse de la sainte Vierge ?… Ce n’est pas à moi à prononcer sur un fait si grave. Ce qui est certain, c’est que les paiens n’ont cessé de répéter ces deux jours, qu’ils voyaient une femme debout sur l’église. Tantôt ils en parlaient avec respect et l’appelaient une belle dame vêtue de blanc, tantôt ils l’insultaient, dépités de ne pouvoir l’atteindre. Les chrétiens, en entendant ce que disaient les paiens, avaient beau regarder, le père lui – même, ne voyait rien”… (Les Missions Catholiques.P.453.1886)

            Còn Cha quản xứ (Cố Nhơn) thì nói gì ?

            Ngài đã xác tín là phép lạ thôi, mặc dù ngài không được nhìn thấy Ðức Mẹ. Trong lá thư viết cho Cha Gane ở Tòa Giám mục Quy Nhơn, ngài đã quả quyết như sau : “Ðối với con, thú thật là con không được nhìn thấy phép lạ (Ðức Mẹ), nhưng buộc con phải tin chắc rằng đó là phép lạ thôi, vì nhà xứ, nhà thờ đã thoát khỏi sự hủy diệt của súng thần công được bắn trực xạ từ một ngọn đồi chỉ cách đó chừng vài chục mét thôi.” (Thư của Cha Bruyère gởi cho Cha Gane ở Quy Nhơn tháng 10 năm 1885). (Nguyên văn như sau : “Pour moi, je vous l’avoue, sans avoir vu le micrale je suis persuadé que c’est par un micrale seulement que l’église et ma residence ont pu échapper à la ruine de canon, en effet, était braqué à quelques dizaines de mètres à peine.” (Lettre du père J. Bruyère à père Gane à Quy Nhơn 10-1885). (Compte Rendu, année 1885, de Missions Etrangères). Còn giáo dân Trà Kiệu thì tất cả mọi người đều tin tưởng mãnh liệt rằng : Chính Mẹ đã hiện ra và làm phép lạ tỏ tường để chở che cho Giáo xứ Trà Kiệu. Nếu không có ơn lạ của Mẹ thì làm sao nhà thờ nhà xứ có thể thoát khỏi sự tàn phá của súng thần công. Ngoài ra một vài lần giáo dân Trà Kiệu còn nghe quân Văn thân kêu lên với nhau : có một đạo quân trẻ em, mặc áo trắng và đỏ, từ trời cao xuống dọc theo các lũy tre và tiến  lên như một đạo quân đánh giúp cho người Công giáo. Do đó trận nào cũng chỉ sau vài phút giao tranh là họ hoảng sợ bỏ chạy. Tất cả những việc lạ lùng này chúng ta không thể chứng minh cụ thể được, duy chỉ có sự sống còn của Giáo xứ trước một lực lượng hùng hậu và đông gấp bội với đầy đủ vũ khí, có súng thần công, có voi trận, và do những viên tướng tài chỉ huy, thế mà ròng rã 21 ngày đêm bao vây và tấn công, Giáo xứ Trà Kiệu đã tìm được sự sống trong sự chết, đã giải thoát được Giáo xứ vào ngày 21 tháng 9 năm 1885.

            Ðiều đó nếu không phải là ơn trợ lực linh thiêng thì giáo dân Trà Kiệu, với sức mình không thể nào thoát khỏi sự hủy diệt của Văn thân.

            Còn lương dân ở các làng chung quanh, họ cũng tin là Trà Kiệu có ơn lạ.

            Có một số người kể lại rằng là theo các cụ thân sinh cho biết : “Lẽ ra quân ta (Văn thân) đã tràn vào tận diệt hết làng Trà Kiệu một cách dễ dàng, đạp lên cũng chết hết. Nhưng hình như cố đạo dùng pháp thuật “Rấm đậu thành binh” khiến xuất hiện vô số âm binh đánh lại quân ta. Các cụ thân sinh còn cho biết các âm binh đó đều là con nít, cầm thanh bạc bay phất phới đánh vào đầu nghĩa quân, khiến tử vong không ít, rồi hàng ngũ hỗn loạn, sợ hãi, xô đẩy, đạp lên nhau chạy thoát”.

            Ðiều này thì giáo dân Trà Kiệu lúc đó cũng đã nghe quân Văn thân kêu lên với nhau như vậy, và họ tin tưởng đó là các Thiên thần đến cứu giúp Giáo xứ, chứ làm gì mà có “pháp thuật rấm đậu thành binh” như họ tưởng. Còn ông Tú Quỳ, một trí thức không Công giáo ở làng bên, cũng đã có những vần thơ kể lại biến cố đặc biệt này.

            Với niềm tin mãnh liệt, với lòng biết ơn vô vàn, Cha quản xứ và giáo dân Trà Kiệu đã đến quỳ trước bàn thờ của Mẹ mà không sao cầm được nước mắt, những giọt nước mắt vui mừng sung sướng và cũng là những giọt nước mắt biết ơn… Trong những ngày đầu mới bị bao vây Cha quản xứ đã chạy đến cầu cùng Mẹ, ngài đã thiết lập một bàn thờ Ðức Mẹ ngay tại nhà xứ để cho những ai không đi chiến đấu được thì ở lại đọc kinh cầu nguyện với Mẹ.

            Ðể bày tỏ lòng biết ơn đối với sự phù trì đặc biệt của Thiên Chúa qua bàn tay nhân lành của Mẹ Maria, cũng như để cho con cháu muôn đời về sau nhớ mãi Hồng Ân cao cả này, Cố Nhơn và giáo dân Trà Kiệu đã trùng tu lại ngôi Thánh Ðường chính, nơi mà Mẹ đã hiện ra, một cách trang trọng bề thế hơn. Công trình bắt đầu thi công từ năm 1889 cho đến năm 1892 mới hoàn thành. Công cuộc trùng tu này đã tạo nên ngôi Thánh Ðường Trà Kiệu trông rất nguy nga đồ sộ nhất trong Giáo phận Quy Nhơn. Hai tháp chuông hai bên thật kiên cố, Cung Thánh được trang trí công phu khéo léo, chạm trổ tinh vi. Vào cuối năm 1892 Ðức Cha Hân (Van Calmebecke), Giám mục địa phận Quy Nhơn ra chủ trì lễ khánh thành.

            Sáu năm sau đó, tức là vào năm 1898 (Mậu Tuất niên) Cố Nhơn và giáo dân Trà Kiệu lại xây dựng một ngôi Thánh Ðường khác để dâng kính cách riêng cho Ðức Mẹ với tước hiệu là “Ðức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu” (B.M. Auxilium Christianorum). Ngôi Thánh Ðường Ðức Mẹ này được xây dựng ngay trên đồi Bửu Châu (tức là núi Non Trượt) nơi mà giáo dân Trà Kiệu đã tiến chiếm vào ngày21 tháng 9 năm 1885 và cũng là trận giao chiến cuối cùng với Văn thân và đã giải cứu được cho Giáo xứ. Ngôi Thánh Ðường này còn được gọi là Nhà thờ Núi, lúc ban đầu chỉ làm tạm bằng gỗ, nhưng sau đó qua nhiều thời kỳ trùng tu sửa chữa (xem chi tiết ở phần “Thánh Ðường Trà Kiệu”), Nhà thờ Núi vẫn là một chứng tích, một di bảo để lại cho con cháu muôn đời về sau nhớ mãi Hồng ân mà Mẹ Thiên Chúa đã ra tay che chở cho đoàn con Trà Kiệu qua khỏi cơn tàn sát khủng khiếp năm 1885.

            Biến cố 1885 tuy không tàn sát được giáo dân ở Trà Kiệu, nhưng giáo dân ở các họ lẻ (họ nhánh) nếu không kịp chạy về trú ẩn ở Trà Kiệu thì lại bị tàn sát hết, như chi họ Vân Ðỏa chỉ chạy được ít người, còn chi họ Ngọc Khô thì bì lùa tất cả vào trong nhà thờ Ngọc Khô rồi họ phóng lửa thiêu sống bất kể già trẻ. Trong khi đó có một em bé không biết làm sao mà chạy thoát ra ngoài và tìm đường chạy ra Trà Kiệu thì còn sống sót mà thôi.

            Vì thế biến cố Văn thân đã làm cho con số giáo dân Giáo xứ Trà Kiệu (kể cả các họ lẻ) giảm đáng kể. Song song với công việc trùng tu lại Thánh Ðường chính, xây thêm Thánh Ðường Ðức Mẹ, thì Cha Quản xứ còn phải lo công việc truyền giáo, nhờ đó mà con số giáo dân của Giáo xứ Trà Kiệu lại bắt đầu tăng dần. Theo các tập Mémorial (Mission de Quy Nhơn) thì vào năm 1891 Cha Nhơn đã rửa tội được 132 người lớn và 621 trẻ em. Trong năm này Cha cũng đã giải tội 1825 lượt.

            Trong năm 1893 Cha Nhơn rửa tội được 68 người lớn. Và những năm sau đó số người trở lại đạo ngày càng nhiều vì thế mà ngày 31 tháng 7 năm 1907 Tòa Giám mục Quy Nhơn mới bài sai Cha Thung về phụ giúp cho Cha Nhơn, và có lẻ ngài là Cha phó đầu tiên được biết đến. Ðến ngày 31-8-1907 thì lại có thêm Cha Gallioz (Cố Thiết) cũng được chuyển về làm phó xứ Trà Kiệu. Thật ra thì Cha Gallioz vừa mới được phong chức Linh mục (1907) và sang truyền giáo tại Quy Nhơn, nên được Tòa Giám mục chuyển về Trà Kiệu vừa để giúp Cha quản xứ, vừa để học thêm tiếng Việt.

            Vào mùa hè năm 1909 có Cha Mugier Eugène về nghỉ hai tháng hè tại Trà Kiệu, trong thời gian này thì Cha Gallioz (Thiết) phải đi điều trị tại Ðà Nẵng nên Cha Eugène thay thế cho ngài. (Mémorial n. 56).

            Vào ngày 26 tháng 10 năm 1909 Cố Nhơn bị té ngựa đau cánh vai, vì Ngài thường dùng ngựa để đi truyền giáo và mục vụ tại các họ lẻ ở xa và các vùng núi đồi. Sau một tháng điều trị tại Giáo xứ không thuyên giảm, nên ngày 25 tháng 11 năm 1909 Ngài phải ra bệnh viện Ðà Nẵng để điều trị. Ở bệnh viện Ðà Nẵng, Ngài được một bác sĩ và hai y tá tận tâm chữa trị, họ đã kéo lại khớp xương vai bị trật cho Ngài, và Ngài đã rời bệnh viện để trở về Giáo xứ Trà Kiệu trước lễ Giáng Sinh năm đó (theo Mémorial de Quy Nhơn số 57).

            Ðến năm 1910, thì Giáo xứ trà Kiệu đã được củng cố và phát triển tương đối rộng lớn, có 20 họ lẻ (chi họ) với 3.523 giáo dân trong đó tại Trà Kiệu có 1.302 giáo hữu.

            Cố Nhơn còn tổ chức “Họ Môi Khôi” trong Giáo xứ và được lưu giữ đến ngày nay. Mỗi khi có ai qua đời thì rao trong nhà thờ: “Trong Họ Môi Khôi có một người qua đời Thánh hiệu… Ai có vào Họ thì phải lần hạt”.

            Cuối cùng thì Ngài vào chữa bệnh tại bệnh viện SàiGòn và chết tại đó. Thi hài của ngài được an táng tại khu vực Lăng Cha Cả, Sàigòn (tức là Lăng Giám mục Bá Ða Lộc). Sau năm 1975, khi chính quyền cách mạng giải tỏa Lăng Cha Cả, hài cốt của Ngài được đưa về cải táng tại khuôn viên nhà thờ Chí Hòa.

            Hiện nay, thi hài của ngài đã được Giáo xứ Trà Kiệu cung thỉnh về an táng tại khuôn viên Thánh đường Giáo xứ Trà Kiệu.

3. ÐỀN MẸ TRÀ KIỆU (NHÀ THỜ NÚI) – TRUNG TÂM THÁNH MẪU TRÀ KIỆU

            Ðền Mẹ Trà Kiệu hay còn gọi là Nhà thờ Núi, được xây cất vào năm 1898 (sau biến cố Văn Thân) để dâng kính cách riêng cho Ðức Mẹ Maria.

            Như chúng ta đã biết, Giáo xứ Trà Kiệu sống còn là nhờ sự che chở đặc biệt của Mẹ Maria, trước sự tàn sát khốc liệt của Văn Thân. Vì thế để tỏ lòng biết ơn Mẹ và ghi dấu cho muôn đời con cháu về sau, Giáo xứ Trà Kiệu đã xây dựng một ngôi Thánh Ðường bé nhỏ xinh đẹp để dâng kính Mẹ với tước hiệu “Ðức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu” (B. Maria Auxilium Christianorum).

            Thánh Ðường Mẹ được xây dựng trên ngọn đồi Bửu Châu (hay Non Trượt), là nơi mà giáo dân Trà Kiệu đã bất ngờ tiến chiếm và giao tranh với quân Văn Thân trận cuối cùng vào ngày 21 tháng 9 năm 1885, và đã chiến thắng, cứu thoát Giáo xứ khỏi sự tàn sát. Trước biến cố Văn Thân, ngọn đồi Bửu Châu có một ngôi đình nhỏ bỏ hoang ít ai lui tới, khi Văn Thân kéo đến bao vây Giáo xứ thì họ liền chiếm ngọn đồi Hòn Bằng (Kim Sơn) ở phía Tây và ngọn đồi Bửu Châu (ở phía Ðông) để làm nơi canh gác cẩn mật. Nhất là sau khi Giáo xứ tiến chiếm lại ngọn đồi Kim Sơn (12/9/1885) thì Văn Thân lại tập trung về canh giữ đồi Bửu Châu. Nhưng sau khi giáo dân Trà Kiệu đã tiến chiếm được ngọn đồi Bửu Châu này và đánh đuổi quân Văn Thân tháo chạy, thì giáo xứ hoàn toàn chiếm giữ ngọn đồi này.

            Cho đến năm 1898 (năm Mậu Tuất) nghĩa là sau 13 năm Ðức Mẹ hiện ra cứu nguy cho Giáo xứ, khi đã hoàn thành công tác trùng tu tái thiết lại ngôi Thánh Ðường chính, Cố Nhơn và Giáo xứ Trà Kiệu bắt đầu xây dựng Thánh Ðường Mẹ tại đồi Bửu Châu. Ngôi đền Mẹ đầu tiên này cũng chỉ làm bằng gỗ đơn sơ bé nhỏ nhằm mục đích để mãi mãi ghi nhớ Hồng ân cao quí là Mẹ đã cứu thoát Giáo xứ khỏi cơn giáo nạn khủng khiếp. Ngôi nhà thờ này đã bị sét đánh lần đầu vào khoảng năm 1915 và đến năm 1927 thì bị sét đánh một lần nữa, hư hại nặng nề, tượng Ðức Mẹ bị bể, cho nên Cố Lân đã cho xây dựng lại một ngôi Thánh Ðường bằng gạch, mái lợp ngói rất xinh đẹp và có một hệ thống thu sét. Trong khi tháo gỡ đền cũ người ta thấy trên một cây trính có ghi ba chữ “Mậu Tuất niên”, tức là ghi lại cái năm bắt đầu khởi công tạo dựng đền Mẹ (Mậu Tuất là năm 1898). Công trình xây dựng lại nhà thờ núi kéo dài trong hai năm từ năm 1927 đến năm 1928 mới hoàn tất.

            Ðến năm 1963 khi Ðức Cố Giám mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi được Tòa Thánh bổ nhiệm về làm Giám mục Ðà Nẵng tiên khởi (giáo phận mới thành lập) thì ngài đã chọn Trà Kiệu làm Trung Tâm Thánh Mẫu toàn giáo phận Ðà Nẵng, nên đã có chương trình chỉnh trang tu sửa và cải tạo lại toàn khu đền Mẹ. Ðể thực hiện chương trình chỉnh trang này, Ðức Cha Chi mới bổ nhiệm Linh mục Phêrô Lê Như Hảo, một Linh mục trẻ và có năng lực kiến thiết, về làm Cha sở Trà Kiệu kiêm Trung Tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu.

            Vì thế khi Linh mục Hảo đến nhậm nhiệm sở Trà Kiệu (10-6-1963) việc đầu tiên là lo xây dựng khu Trung Tâm Thánh Mẫu. Sau 3 năm chuẩn bị ngày 8-8-1966 Cha Hảo bắt đầu khởi công xây dựng lại ngôi đền Mẹ trên đồi Bửu Châu. Ngôi nhà thờ cũ được xây dựng vào năm 1927 dưới thời cố Lân, lại phải triệt hạ, để thay vào đó một ngôi đền mới, kiến trúc hiện đại và do kiến trúc sư Công giáo danh tiếng Ngô Viết Thụ thiết kế bằng bêtông cốt thép.

            Theo kiến trúc mới chúng ta không còn ý niệm về một ngôi nhà thờ Mẹ mà mang ý nghĩa của một ngôi Ðền Mẹ, vì công trình được kiến trúc dạng tam giác ba mặt không có bao che để người ta có thể cầu nguyện từ ba phía. Cái nét đẹp của Ðền Mẹ là tháp tam giác vươn cao lên không gian đến 38 mét kể từ mặt nền (theo bản vẽ kiến trúc), nhưng thực tế thì Cha Hảo mới cho thi công đến cao trình 9 mét, còn 29 mét chiều cao chưa được thi công. Nếu như Ðền Mẹ được thực hiện đúng theo sơ đồ thiết kế thì đây là một công trình rất đẹp, hài hòa với ngọn đồi Bửu Châu mà mặt bằng ở chóp đỉnh là một hình Oval. Công trình này do thầy Lê Công Khanh chỉ đạo thi công.

            Và nếu như không có ơn Mẹ chở che thì ngôi Ðền Mẹ chưa kịp hoàn thành này cũng như ngọn đồi Bửu Châu đã bị quả bom 500kg của máy bay B.52 Mỹ phá hủy cả rồi. Vào một đêm trung tuần tháng 12 năm 1966, B.52 của Mỹ thả bom ở khu vực Hoàng Châu (bên cạnh Trà Kiệu) lại rơi xuống ngay trên ngọn đồi Bửu Châu. Ðiều kỳ lạ nhất là quả bom đó rơi đúng phần sân phía trước, ngay trên đống cát bên cạnh các đống gạch đá, sắt thép ngổn ngang và quả bom không nổ…

            Chính Linh mục Nguyễn Thanh Châu, lúc đó là Phó xứ Trà Kiệu cũng đã ghi lại như sau :

            “… Cũng vào tháng 12 năm này (1966), trong lúc tôi và các trưởng Hùng Tâm Dũng Chí đang dượt văn nghệ cho các đội văn nghệ để mừng Chúa Giáng Sinh, thì một trái bom 500kg, do máy bay B.52 bỏ ở khu vực Hoàng Châu đã rơi xuống đống cát, giữa đống đá, sắt bên cạnh, bom chỉ vang lên một tiếng “bịch”, khắp cả Trà Kiệu nghe rõ. Mọi người đổ xô lên núi Bửu Châu xem hiện tượng vừa xảy ra vào lúc 9 giờ tối tháng 12 năm 1966…”.

            Sáng hôm sau, lính Ðại Hàn ở trên Hòn Bằng xuống tháo kíp nổ, còn quả bom thì để lại làm kỷ niệm.

            Quả bom này được để tại sân nhà thờ núi cho đến thời Cha quản xứ Nguyễn Trường Thăng, do mưa gió làm sân sụt lở, quả bom cũng bị cuốn theo và người ta đã thừa cơ hội đem đi bán phế liệu…

            Sau 25 năm xây dựng, nền móng chung quanh Ðền Mẹ bị mưa bão và thiên tai tàn phá làm sụt lở đất nền, nên Cha Nguyễn Trường Thăng, quản xứ Trà Kiệu đã xin phép Nhà nước cho xây kè đá và đúc sàn bêtông phía sân trước để chống lại sự xói mòn của mưa gió. Công việc tu sửa chống sụt lở này được thi công vào cuối năm 1987, trước khi Cha Thăng được chuyển về quản xứ Giáo xứ Chính Tòa Ðà Nẵng

            Khi Cha Mai Văn Tôn về quản xứ thay Cha Thăng (1989) thì mưa bão lại tiếp tục đe dọa đến phía sau và hai bên hông của Ðền Mẹ. Lượng nước mưa càng năm càng lớn xói mòn nhiều, nhất là góc tam giác phía sau, khiến đất lở đã kề đến chân móng, có dấu hiệu làm rạn nứt cột móng. Nếu như không trùng tu kịp thời thì trong vòng vài năm nữa Ðền Mẹ sẽ sụt lở nguy hiểm. Tuy nhiên kinh phí để tu sửa mới là điều nan giải. Công sức của giáo dân Trà Kiệu thì có, nhưng tiền của thì lại quá khó khăn. Mãi cho đến cuối năm 1991, tình hình khá nguy ngập, không thể chờ đợi được, nên Cha Tôn nghĩ đến việc kêu gọi sự trợ giúp của những người con Giáo xứ hiện đang sinh sống ở nước ngoài. Cha nhờ anh Phạm Cảnh Ðáng khảo sát và lập một họa đồ chống sụt lở phần sau và hai bên hông, đồng thời lập bảng dự toán kinh phí tu sửa. Khi họa đồ và bảng dự toán kinh phí hoàn thành, Cha Tôn đã gởi thư kêu gọi tất cả con cái Mẹ Trà Kiệu ở hải ngoại để xin rộng tay giúp đỡ. (Thư và họa đồ được đăng trên tờ “Ðức Mẹ Trà Kiệu” của Hội Con Cái Mẹ Trà Kiệu hải ngoại số tháng 11-1992). Một năm sau nhờ sự nhiệt tình với Mẹ quê hương, anh chị em Trà Kiệu hải ngoại đã vận động đóng góp được một số tiền lớn và chuyển về cho Cha Tôn qua Tòa Giám mục Ðà Nẵng. Ðến khoảng tháng 7 năm 1993 thì công trình chống sụt lở Ðền Mẹ được bắt đầu khởi công, cho đến ngày 28 tháng 8 năm 1993 thì đợt đổ bêtông cuối cùng đã hoàn tất. Sau đó là công việc trang trí bao lơn chung quanh Ðền Mẹ.

            Cho đến nay thì toàn bộ phần sân của ngôi đền Mẹ đã được xây kè và đúc sàn bêtông cốt thép để có thể chịu đựng được sự tàn phá khắc nghiệt của thiên nhiên thời tiết.

            Ngày nay, nhà thờ Núi còn được nhìn nhận là một điểm tham quan trong tỉnh Quảng Nam. Ông Võ Thanh Vân, trong tạp chí Văn hóa Quảng Nam số 5 tháng 12 năm 1997, đã nói về nhà thờ núi Trà Kiệu như sau :

            “Ðến với Duy Xuyên, du khách không khỏi ngỡ ngàng khi dừng chân giữa cảnh trời mây non nước Trà Kiệu : “Nhà thờ Núi Trà Kiệu”, “Nhà thờ Ngũ xã Trà Kiệu” là những danh lam thắng cảnh mang tính văn hóa và lịch sử của Công giáo Duy Xuyên. Có thể nói “Nhà thờ Núi Trà Kiệu” cuốn hút khách tham quan du lịch nhiều nơi từ cái vẻ huyền bí và lộng lẫy. Truyền thuyết xưa kể rằng : Ðêm 19/9/1885 Ðức Mẹ Maria xuất hiện ngay trên đồi Bửu Châu (thực ra thì Ðức Mẹ hiện ra vào ngày 10 và 11 tháng 9 năm 1885 tại nhà thờ trên, chứ không phải tại đồi Bửu Châu -LTG). Ðể tưởng nhớ Ðức Mẹ Maria, đền thờ núi được chính thức xây dựng từ đó.

            Ðứng trên đồi Bửu Châu, bất giác tôi nhớ lại công trình khai sơn phá thạch của giáo dân Duy Sơn. Với 150 bậc cấp dẫn du khách đến đền thờ Thánh Mẫu Maria. Trên đồi Bửu Châu lộng gió nhìn xuống Trà Kiệu như một thành phố thu nhỏ, xa xa là những cánh rừng, thảo nguyên, bình minh, chân trời… Vào đêm đẹp trời nào đó, đến với đồi Bửu Châu, du khách sẽ được thưởng ngoạn một Trà Kiệu lung linh dưới ánh đèn mờ và sao trời, chẳng khác nào cái tết “Nguyên Tiêu” trên đồi Ngự Bình, ở thành phố Huế mộng mơ…”.

            Ðền Mẹ Bửu Châu là gia bảo quý báu của Giáo xứ Trà Kiệu, là dòng sữa thần linh nuôi sống bao đời, là dấu ấn quý yêu của tất cả mọi người con Giáo xứ. Ðền Mẹ Bửu Châu còn là niềm an vui tự tại, là nỗi dịu vợi tâm hồn, là ước vọng trần đầy cho khách đến viếng thăm, cho dù khách chưa bao giờ biết Mẹ.

            Ta hãy nghe một trong muôn vàn người khách đến viếng đồi Bửu Châu đã ghi lại nơi sổ vàng kỷ niệm :

            “Trưa hôm nay con ngồi như trẻ nhỏ,

            Giữa đáy trưa, trong lòng Mẹ vô cùng.

            Con là sáo, Mẹ là ngàn vạn gió,

            Mẹ là trời, con là hạt sương rung…”

                                                                 (“Việt Muôn Ðời”)

                                                         Thi sĩ Xuân Diệu – 20.5.1983

 

                NHỮNG  NGÀY  ĐẠI  HỘI

 

1. ÐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN QUY NHƠN

TẠI TRÀ KIỆU LẦN I  (1959)

 

            Vào năm 1958 Giáo phận Quy Nhơn đã chọn Trà Kiệu làm Trung tâm Thánh Mẫu của Giáo phận, và cứ 3 năm sẽ tổ chức Ðại hội Thánh Mẫu Giáo phận một lần và Ðại hội lần thứ nhất sẽ được tổ chức vào năm 1959 (lúc đó Trà Kiệu còn thuộc Giáo phận Quy Nhơn, chưa lập Giáo phận Ðà Nẵng).

            Ðể sốt mến bế mạc năm Thánh Mẫu (1958) toàn Giáo phận, Giáo phận Quy Nhơn đã chính thức tổ chức Ðại hội lần thứ nhất trong 3 ngày, từ ngày 31 tháng 1 đến ngày 2 tháng 2 năm 1959 tại Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu. Ðây cũng là lần đầu tiên mà cả Giáo phận mới có dịp hành hương về linh địa Trà Kiệu. Ngày ấy có khoảng 10 ngàn người từ khắp Giáo phận (Quảng Nam – Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên) về Trà Kiệu dự Ðại Hội.

                        Người ta còn nhớ hai câu thơ :

                             “Nhớ mồng 2 nhớ tháng 2

                        Hội Ðền Trà Kiệu ai ai cũng về”.

 

2. ÐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN ÐÀ NẴNG

TẠI TRÀ KIỆU LẦN II (1971)

 

            Ðại hội lần thứ 2 dự trù sẽ tổ chức vào năm 1962 nhưng năm 1962 có nhiều biến cố đặc biệt như khai mạc Công đồng Vaticanô II (10-1962) và nhất là Giáo phận Ðà Nẵng sắp sửa thành lập, nên năm 1962 không có tổ chức Ðại hội.

            Và vào ngày 18-1-1963 Tòa Thánh đã ký sắc chỉ thành lập Giáo phận Ðà Nẵng. Giáo phận Ðà Nẵng gồm 2 tỉnh Quảng Tín và Quảng Nam (mà ngày nay là Quảng Nam và thành phố Ðà Nẵng) được tách ra khỏi Giáo phận mẹ Quy Nhơn. Trà Kiệu lại thuộc về Giáo phận Ðà Nẵng. Vị Giám mục tiên khởi của Giáo phận Ðà Nẵng là Ðức Cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi nguyên Giám mục Giáo phận Quy Nhơn. Ngay sau khi được sắc lệnh bổ nhiệm Giám mục tiên khởi Giáo phận Ðà Nẵng, Ðức Cha Chi đã ký lệnh bổ nhiệm đầu tiên vào ngày 1-2-1963, bổ nhiệm Linh mục Phêrô Lê Như Hảo, quản xứ Trà Kiệu kiêm trách nhiệm đặc biệt là “Trùng tu tái thiết lại Trung Tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu” để xứng đáng là Trung tâm Hành hương của cả Giáo phận Ðà Nẵng.

            Ngày 10-6-1963, Linh mục Lê Như Hảo về nhậm chức tại Trà Kiệu và ngài đã bắt tay vào công tác tái thiết xây dựng lại Trung tâm Thánh Mẫu tại đồi Bửu Châu và chỉnh trang các cơ sở của Giáo xứ để có thể đón tiếp các đoàn hành hương và tổ chức Ðại hội sau này.

            Nhưng từ năm 1963 trở đi tình hình chiến cuộc ngày càng ác liệt, sự đi lại khó khăn nguy hiểm, cho nên Giáo phận Ðà Nẵng cũng chưa thể tổ chức Ðại hội Thánh Mẫu 3 năm một lần như dự định được.

            Ðến năm 1970 việc tu sửa Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu tạm thời hoàn tất, đồng thời cuộc chiến có phần êm dịu, nên Ðức Cha Chi muốn tổ chức Ðại hội tại Trà Kiệu. Sau 3 cuộc họp để tham khảo ý kiến với Hội đồng Linh mục, Ðức Cha Chi mới đi đến quyết định là sẽ tổ chức cuộc “Ðại hội Thánh Mẫu Ðịa phận” tại linh địa Trà Kiệu trong 3 ngày kể từ ngày 29 đến 31 tháng 5 năm 1971.

            Ðây là cuộc Ðại hội Thánh Mẫu tại Trà Kiệu lần thứ hai và được tổ chức hết sức long trọng.

            Trong lá thư kêu gọi gởi đến các Linh mục, tu sĩ, và giáo dân trong Giáo phận Ðức Cha Chi đã viết :

            “Sau khi tham khảo ý kiến Hội đồng các Linh mục qua 3 buổi họp ngày 20-10-1970, 17-11-1970 và 10-2-1971 :

            Tôi nhận thấy để :

            – Phù hợp với những biến chuyển của dấu chỉ thời đại Thánh Mẫu nhằm mục đích làm cho Dân Chúa ý thức cuộc sống của tinh thần Mẹ Maria.

            – Thích nghi với đường hướng của công đồng Vaticanô II.

            – Cầu nguyện cho nền hòa bình công chính của Việt Nam và thế giới.

             Tôi quyết định tổ chức thật long trọng Ðại hội Thánh Mẫu tại Trung  Tâm Thánh Mẫu Ðịa phận ở Trà Kiệu thuộc quận Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam, vào những ngày cuối tháng Ðức Mẹ : 29, 30 và 31 tháng 5 năm 1971. Ngày Bế mạc nhằm ngày lễ Vương Quyền Ðức Mẹ.

            Như Quý Cha, Quý tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo hữu đã biết, Trà Kiệu là một danh lam có Ðền thờ Ðức Mẹ cổ kính, là nơi linh địa được truyền tụng có Ðức Mẹ hiện ra để Phù Hộ Các Giáo Hữu qua nhiều cơn bách hại, khốn khó… đi liền với lịch sử Giáo hội Việt Nam và nhịp sống của dân tộc.

            Ðịa phận Ðà Nẵng cũng đã chọn Trà Kiệu làm Trung tâm Thánh Mẫu cho Ðịa phận và đã có tổ chức Ðại hội tại đây vào năm 1959.

            Nay, trong khi đất nước đang bước vào một giai đoạn đặc biệt, hoàn cảnh an ninh tại Trà Kiệu có phần khả quan, việc tổ chức Ðại hội Thánh Mẫu thiết tưởng là thích hợp.

            Thưa quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo hữu trong Ðịa phận

            Tôi tin tưởng ngay từ giờ phút này, mọi người chúng ta dâng lên Thiên Chúa những hy sinh, những lời cầu nguyện thống thiết để xin Thiên Chúa chúc phúc cho công việc chúng ta đang thực hiện.

            Tin ở Mẹ Maria với danh hiệu của Ngài là “Ðức Bà Phù Hộ Các Giáo Hữu”, chúng ta nỗ lực hoạt động để thành công.

            Kính chào quý Cha, quý tu sĩ nam nữ và toàn thể giáo hữu.

                                            Ðà Nẵng, ngày 11 tháng 2 năm 1971

                                                    P.M. PHẠM NGỌC CHI

                                                         Giám mục Ðà Nẵng

 

            Và ngày khai mạc Ðại hội 29-5-1971 đã đến… Quả là một dịp Ðại hội Thánh Mẫu thật vĩ đại, thật long trọng, không còn mang ý nghĩa và quy mô của một Giáo phận (Ðà Nẵng) mà là mang tinh thần cả nước (miền Nam Việt Nam). Ngay từ chiều thứ sáu 28-5-1971, khách hành hương từ các nơi xa xôi như Sài Gòn, Ban Mê Thuộc, Kontum, Nha Trang, Quy Nhơn… đã lần lượt đổ về linh địa Trà Kiệu. Rồi những ngày kế tiếp theo đoàn người lũ lượt tăng lên, ngày càng đông, vượt ngoài dự tính ban đầu. Người ta ước lượng có khoảng bốn năm chục ngàn người về dự Ðại hội, ngoài ra còn rất đông đảo Linh mục và nhiều Giám mục. Có cả những vị trọng vọng. Quả là cuộc Ðại hội chưa từng có. Nhưng điều chúng tôi muốn ghi lại không phải là quy mô long trọng vĩ đại của ngày Ðại hội, mà là hồng ân cao cả Mẹ đã ban cho Ðại hội, đó là Mẹ đã chở che cho mọi người được bình an tham dự Ðại hội và Thánh Lễ bế mạc, trong lúc cuộc giao tranh ác liệt đang xảy ra cách đó không xa.

            Chính ông Bùi Văn Giải, một nhân sĩ, một khách hành hương đã chứng kiến tường tận ơn lạ này và đã viết lại như sau :

            “Kẻ viết bài này đã chứng kiến, xin kể ra như là một ơn lạ lớn lao mà Ðức Mẹ đã ban : Sáng ngày 31-5-1971, ngày bế mạc Ðại hội Thánh Mẫu của Giáo phận tổ chức tại linh địa Trà Kiệu, có gần 50 ngàn giáo dân tham dự. Giữa lúc Ðức Cha Philipphê Nguyễn Kim Ðiền, Giám mục Giáo phận Huế, thuyết giảng thì tiếng súng vang rền, một cuộc đụng độ ghê gớm giữa quân đội hai miền Nam Bắc, cách xa lễ đài không đầy một cây số. Phi cơ dội bom, đại pháo nổ liên tiếp. Tuy thế, Thánh Lễ (bế mạc) vẫn tiếp tục. Và khi Thánh Lễ chấm dứt, nhiều loạt đạn tiểu liên ở phía bờ tre gần đó, cách xa lễ đài vài chục thước, lạc vào đám đông. Mấy chục ngàn giáo dân tháo chạy, thế mà không ai bị vướng đạn. Mọi người trong Giáo phận thuở đó đều cho rằng có sự che chở đặc biệt của Ðức Mẹ” (Bùi Văn Giải)

            Còn Linh mục Nguyễn Thanh Châu, lúc đó là Cha phó xứ Trà Kiệu, đã chứng kiến tường tận và Ngài đã ghi lại như một nhân chứng sống động như sau : “Còn về ngày Ðại hội 1971 tại Trà Kiệu thì ngàn người khắp nơi đi dự đã chứng kiến : trong đêm đó có hàng trăm trái nổ chỉa vào dân làng Trà Kiệu, ai cũng run sợ chạy vào nhà thờ trú ẩn. Thế mà cả cuộc lễ sáng cũng như suốt đêm không một ai bị thương hay thiệt mạng. Sáng đó, các Ðức Giám mục, các Linh mục, tu sĩ và đoàn Hướng đạo đang quỳ dâng mình cho Ðức Mẹ trước khán đài hành lễ, khi súng đạn bắn xối xả lên đồi mà không ai hề hấn gì. Thật là nhờ ơn Ðức Mẹ phù giúp” (LM. Giuse Nguyễn Thanh Châu – Tháng 8/1999).

            Khi trao đổi với chúng tôi về biến cố đặc biệt này, anh Micael Phạm Văn Ánh, một giáo dân Trà Kiệu và cũng là một cựu chủng sinh Làng Sông Quy Nhơn, đã vui vẻ kể lại một câu chuyện vui vui mà anh không quên được như sau :

            Trước khi Ðại Hội Thánh Mẫu năm 1971 diễn ra, trong một buổi trà đàm tại nhà ông biện Trinh (gốc An Lộc) nhiều người đề nghị ông đem sách Gia Cát Lượng ra “bói” về ngày Ðại Hội sắp diễn ra. Ông biện Trinh giở sách và gặp 4 câu thơ như sau:

                        “Môn ngoại trùng trùng điệp

                        Âm nhân đa đa hiệp

                        Hiền nữ tuy trợ xảo

                        Diếu diếu nan đa hiệp”

            Và theo ông biện Trinh dịch nghĩa là :

                        “Ngoài cửa trùng trùng điệp

                        Người âm về rất đông

                        Ðức Mẹ dù giúp nhiều

                        Hố hầm, khó hợp lâu”

            Nhưng lúc bấy giờ không ai hiểu 4 câu thơ trên có ý nói gì. Mãi sau khi biến cố 31-5-1971 xảy ra, thì mọi người mới hiểu là : lẽ ra cuộc Ðại hội 1971 không thể kéo dài được, nhưng nhờ ơn Mẹ Ðại Hội vẫn diễn ra một cách tốt đẹp cho đến giờ kết thúc (bế mạc), biến cố mới xảy ra.

            Qua câu chuyện vui này, chúng tôi lại liên tưởng đến sự trợ giúp của Mẹ tại tiệc cưới Cana : Chủ nhà hết rượu, Mẹ xin Chúa Giêsu giúp. Mặc dù Chúa muốn từ chối : Giờ con chưa đến, nhưng Mẹ vẫn tin tưởng bảo gia nhân hãy làm theo những điều Thầy bảo. Và cuối cùng Chúa đã chìu Mẹ – đã cho nước lã hóa thành rượu ngon.

            “Xin đến muôn đời ca tụng hồng ân của Mẹ”

            Sau Ðại hội 1971 cuộc chiến càng ác liệt, nên không thể tổ chức những cuộc Ðại hội tiếp theo, cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, thì cuộc chiến chấm dứt, miền Bắc giải phóng hoàn toàn miền Nam.

            Trong bối cảnh đất nước vừa mới giải phóng, ngày 31-5-1975 (một tháng sau ngày giải phóng miền Nam) Ðức Cha Chi đã về Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu để dâng lễ bế mạc Tháng Hoa Mẹ, theo như truyền thống của Giáo xứ Trà Kiệu.

            Những năm sau đó, chính quyền chưa cho phép tổ chức những lễ lớn, cách riêng là lễ bế mạc Tháng Hoa Mẹ, vì thế mà một thời gian khá dài, Giáo phận Ðà Nẵng không tổ chức Ðại hội định kỳ được. Tuy nhiên, ngày truyền thống 31/5, ngày tôn vinh Mẹ của Giáo xứ Trà Kiệu, vẫn được tổ chức đều đặn, dù hoàn cảnh có khó khăn.

            Ðến năm 1989, do tình hình chính trị xã hội có phần đổi mới, Linh mục quản xứ Antôn Nguyễn Trường Thăng đã xin phép chính quyền tổ chức cuộc cung nghinh Mẹ theo truyền thống vào ngày 31-5 (ngày bế mạc Tháng Hoa Mẹ).

            Ðúng 15h00 ngày 31-5-1989, Cha quản xứ Trà Kiệu Antôn Nguyễn Trường Thăng, đã cử hành nghi thức khai mạc, và sau đó cuộc cung nghinh Mẹ bắt đầu lên đường, từ nhà thờ trên, qua xóm phái Ðông, rồi tiến lên Ðồi Mẹ. Ôi, sau mười mấy năm trời, hôm nay lại mới được dịp cung nghinh Mẹ. Cuộc cung nghinh Mẹ tuy không long trọng quy mô như những lần trước, nhưng mọi người lại cảm thấy dạt dào tin yêu phấn khởi, lòng tràn đầy hân hoan sung sướng vì Mẹ vẫn ở đây với chúng con.

            Kể từ đó, hàng năm cứ đến ngày 31-5 (ngày truyền thống) Giáo xứ lại tổ chức cung nghinh Mẹ từ nhà thờ chính xuống đài Mẹ tại Trung tâm Thánh Mẫu để cử hành Thánh Lễ bế mạc Tháng Hoa Mẹ. Tuy hình thức là do Giáo xứ Trà Kiệu tổ chức, nhưng giáo dân cả giáo phận có khi ngoài Giáo phận nữa, cũng về tham dự. Có năm số khách hành hương về tham dự lên đến vài ba chục ngàn người, như Ðại hội năm 1993, mừng 30 năm thành lập Giáo phận Ðà Nẵng.

 

3. ÐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN

TẠI TRÀ KIỆU LẦN III (1995)

 

            Do tình hình càng ngày càng ổn định hơn, nên vào năm 1995, nhân dịp kỷ niệm 110 năm Ðức Mẹ hiện ra tại Trà Kiệu (1885 – 1995) Giáo phận Ðà Nẵng đã đứng ra xin phép tổ chức ngày Ðại hội Thánh Mẫu Giáo phận lần thứ 3.

            Kể từ sau ngày miền Nam được giải phóng, đây là lần Ðại hội đầu tiên do Giáo phận Ðà Nẵng tổ chức và cứ theo thông lệ thì 3 năm Giáo phận tổ chức một lần, trừ những dịp đặc biệt. Còn những năm Giáo phận không tổ chức thì Giáo xứ Trà Kiệu tổ chức.

            Ðại hội lần thứ 3 cũng được tổ chức một cách trọng thể. Ðầu năm 1995 các Linh mục Hạt trưởng trong Giáo phận đã được Linh mục Tổng Ðại diện Nguyễn Văn Ðán, hướng dẫn về tại linh địa Trà Kiệu để họp bàn phương án tổ chức. Trong dịp này, các ngài đã quyết định lấp hồ sen 2 Thánh Phêrô và Phaolô để có chỗ cho giáo dân đứng dự lễ, đồng thời thiết kế lại lễ đài cho giáo dân tiện tham dự.

            Và đại hội Thánh Mẫu Giáo phận lần thứ 3 đã diễn ra rất long trọng. Ngoài ÐGM Giáo phận Ðà Nẵng còn có Ðức Tổng Giám mục Huế, Ðức Giám mục Quy Nhơn và Ðức Giám mục Kontum cũng về dự. Thánh lễ bế mạc gồm 50 Linh mục đồng tế với khoảng 35 ngàn giáo dân tham dự.

 

4. ÐẠI HỘI THÁNH MẪU GIÁO PHẬN
TẠI TRÀ KIỆU LẦN IV (1997)

 

            Ðáng lẽ ra Ðại hội Thánh Mẫu Giáo phận lần thứ 4 sẽ được tổ chức vào năm 1998 (3 năm một lần). Nhưng vì năm 1997 có một sự kiện đặc biệt : Là năm khai mạc Ðại năm Thánh 2000, nên Giáo phận Ðà Nẵng đã quyết định tổ chức Ðại hội Thánh Mẫu Giáo phận vào ngày 31-5-1997 để khai mạc tam niên Thánh, chuẩn bị đón mừng năm Ðại Hồng Ân (Grand Jubilé) 2000.

            Ngày Ðại hội này do Giáo phận đảm nhận công việc thực hiện “nội dung” chương trình, như dẫn lễ, tổ chức viếng Mẹ và chầu Mình Thánh Chúa, cũng như đi rước kiệu, dâng hoa, ca hát v.v… Sau đây chúng tôi ghi lại quang cảnh tổ chức ngày Ðại hội, “Ðại hội Giáo phận lần thứ 4” – 31/5/1997.

            Nắng vàng tươi của đầu ngày 31-5-1997 như reo vui nhảy nhót trên từng đọt cây ngọn lá, và trải nhẹ một tấm thảm vàng rực rỡ tươi sáng trên toàn cảnh vật.

            Ngọn gió sớm bắt đầu thức giấc làm thướt tha những lá cờ hội đang vươn cao trong nắng mai, như để báo hiệu một ngày Ðại hội Ðức Mẹ tưng bừng trang trọng.

            Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu hôm nay thật uy nghi khác thường. Nghinh đài Mẹ với bóng Thánh Giá vươn cao, in hình trên bầu trời xanh huyền diệu. Phía sau lễ đài là biểu tượng của ngày hội với dòng chữ lớn “Ðức Maria – Mẹ Chúa KiTô”. Ðó cũng là chủ đề của ngày Ðại Hội năm nay.

            Mới 8 giờ mà khách hành hương từ khắp nơi đã đổ về tấp nập. Có nhiều đoàn ở xa như Quy Nhơn – Pleiku – Kontum, đã đến từ chiều hôm trước. Chả mấy chốc đoàn người lũ lượt càng lúc càng đông, càng tấp nập, càng rộn rã, đã tràn ngập khắp nơi khu Trung tâm Thánh Mẫu và khu Nhà thờ Xứ. 8 giờ 30 bắt đầu các giờ Chầu Mình Thánh Chúa ở Nhà thờ Xứ và tôn vinh Mẹ tại Ðền Bửu Châu.

            Mặt trời càng lên cao, dòng người càng đông đúc, thì nắng hè lại càng oi bức, nhưng ai nấy đều vui mừng rạng rỡ, tấp nập chen lấn nhau để kịp lên Ðền Mẹ hay đến Nhà Thờ Xứ để cầu nguyện.

            Những điểm “Nước uống phục vụ miễn phí” đã bắt đầu phát huy tác dụng. Nhiều chủ nhà đã phải tiếp đến thùng nước thứ 2, thứ 3 để cho khách hành hương tạm qua cơn khát. Nhìn những công việc tuy bé nhỏ tầm thường này của các gia đình giáo dân Trà Kiệu ở hai bên đường, tôi tự dưng thấy lòng mát lại và cơn khát cháy bỏng nơi cổ họng đã tiêu tan trước những tấm lòng chứa chan dịu mát này. Ðặc biệt là chúng tôi thấy có 2 điểm giải khát miễn phí bằng nước khoáng. Tuy không thể thỏa mãn hết mọi nhu cầu, nhưng đó cũng là một hy sinh lớn. Ngoài ra tại các gia đình, nếu khách hành hương có ghé lại, cũng sẽ được đón mời bằng những bữa ăn đơn giản chế biến sẵn : “Mì Quảng”…

            Ðúng 14h30 tiếng chuông Thánh Ðường Trà Kiệu bắt đầu ngân vang. Báo hiệu giờ khai mạc cuộc cung nghinh Mẹ đã đến. Dòng người lại tấp nập đổ về khuôn viên Thánh Ðường Giáo xứ để tham dự cuộc cung nghinh Mẹ chiều nay. Thánh Ðường Giáo xứ cũng chính là nơi mà Ðức Mẹ đã hiện ra vào ngày 10 – 11 tháng 9 năm 1885 để cứu nguy cho đoàn con Trà Kiệu của Mẹ.

            Ðể bắt đầu khai mạc cuộc cung nghinh, tiếng vọng từ loa phóng thanh đã nhắc nhở mọi người nên ý thức sâu sắc rằng : Giáo hội trần thế là Giáo hội Lữ hành đang tiến về cõi vĩnh phúc và Giáo hội đã xin Mẹ hãy đồng hành với con cái của mình trên con đường Ðức Tin.

            Sau lời tuyên bố khai mạc của Linh mục quản xứ, Cha chủ sự dâng hương cho Mẹ và một hoạt vũ “Mừng năm Thánh” do các Soeur Dòng Mến Thánh Giá phụ trách, đã bắt đầu công diễn.

            Giữa quanh cảnh rực rỡ tưng bừng của vũ điệu, màu sắc, giữa cảnh “rừng người” nghiêm trang theo dõi thì bỗng chốc bầu trời trở nên u ám, mây đen kéo về và mưa bắt đầu rơi, càng lúc càng nặng hạt. Tôi thấy mũ đã được đội lên, dù đã được bung ra… nhưng mọi người vẫn nghiêm trang và đoàn dâng hoa vẫn bình thản tiếp tục những vũ điệu cuối cùng, vì ai cũng tin tưởng vào Mẹ, mà giả như có một cơn mưa như trút thì cũng không sao. Nhưng lạ thay hình như Mẹ chỉ thử lòng tin của con Mẹ, nên vài phút sau mưa ngừng rơi và bầu trời lại tươi sáng.

            Hiện tượng này đã làm cho nhiều người nhớ lại hiện tượng “Mưa gió vần vũ” khi kiệu Mẹ vừa tiến vào lễ đài trong ngày Ðại Hội 31/5/1995. Lúc đó trời đang nắng chói chang bỗng chốc mây đen kéo đến và gió ở đâu nổi lên như một cơn cuồng phong dữ dội. Biểu tượng chừng như gãy đổ. Ai cũng chuẩn bị đón nhận một cơn mưa như trút sắp đổ xuống. Nhưng không ai nao núng, đoàn dâng hoa vẫn đồng dâng lên Mẹ những vũ khúc chân thành kính mến và lạ thay sau chừng 10 phút mưa gió vần vũ, thì bầu trời bắt đầu sáng trở lại, mưa ngớt rơi và gió ngừng thổi, để cho mọi người tiếp tục tham dự Thánh Lễ…

            Ðoàn kiệu đã lên đường, và kiệu Mẹ đã uy nghi tiến vào lễ đài, giữa hàng vạn con tim đang bồi hồi xúc động, giữa hàng vạn môi miệng đều cất cao lời hát “Kính Mừng Nữ Vương”.

            Giáo hạt Ðà Nẵng thay mặt cho toàn thể Giáo phận dâng lên Mẹ hoạt vũ : “Ðức Maria dưới chân Thánh Giá”. Cao điểm của ngày hội là Thánh Lễ đồng tế do Linh mục Tổng Ðại Diện Giáo phận chủ sự, với sự hiện diện chủ trì và giảng lễ của Ðức Giám mục Giáo phận.

            Mọi người ra về với một tâm hồn an vui thanh thản, vì họ tin rằng Ðức Maria Mẹ Chúa KiTô đang đồng hành với mỗi người trên mọi nẻo đường của cuộc sống để hành hương về Năm Thánh 2000, về cuộc sống vĩnh cửu muôn đời.

            Nhiều người đến linh địa Trà Kiệu và đã ra về trong an bình. Nhiều người đã được sống lại niềm Tin. Nhiều người đã được ơn lành hồn xác. Và nhiều người đã cất cao lời ca tụng danh Mẹ Trà Kiệu.

 

Thay lời kết

 

            Các bậc thâm nho thức giả quanh vùng đã từng bảo rằng : “Trà Kiệu địa hữu thần, tối oai linh, tôn chủ tùy dân”.

            Các vị còn nói tiếp : “Trà Kiệu giống như ngọn đèn bão treo trước gió, dù có bị lung lay, chao đảo, nhưng đèn vẫn không tắt”.

            Ðó cũng là niềm thâm tín của Giáo xứ vì từ đời này qua đời khác hồng ân cao qúy của Chúa và Mẹ Maria vẫn luôn chở che Trà Kiệu.

            Suốt dòng lịch sử lâu dài, Trà Kiệu đã trải qua không biết bao nhiêu biến cố vật đổi sao dời, nhiều lúc tưởng chừng như tan rã. Nhưng phúc thay, Giáo xứ Trà Kiệu vẫn được chở che, vẫn được tiếp nối mạch sống muôn đời và trường tồn cho đến hôm nay (370 năm).

            Bên cạnh đó, một phần khá đông con cái Trà Kiệu đã phải lần lượt ly biệt quê hương vì lý do này hay lý do khác. Họ đã có mặt trên khắp mọi miền đất nước từ Ðà Nẵng, Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Hộ Diêm đến Long Khánh, Ðồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh… Nhất là sau biến cố 1975 bước đường ly hương lại càng xa xôi vạn dặm. Họ đã đến tận các nước bên kia bờ đại dương như Mỹ, Úc, Canada, Pháp… và lại hình thành thêm một cộng đồng Trà Kiệu hải ngoại to lớn và sống động.

            Dù Trà Kiệu ly hương hay Trà Kiệu hải ngoại, họ cũng vẫn là Trà Kiệu, vẫn tiếp bước cha ông thuở trước, là cùng hướng về quê cha đất tổ, về Giáo xứ Trà Kiệu thân yêu để cùng gắn bó với nhau trong tình thân thương huynh đệ, cùng chia sẻ giúp đỡ nhau để xây dựng Giáo xứ mãi trường tồn.

            Nhờ vậy mà Giáo xứ Trà Kiệu ngày nay đã khởi sắc, cuộc sống đã đi vào ổn định, đạo đức được canh tân biến đổi. Hằng năm, Giáo xứ Trà Kiệu còn đón tiếp hàng vạn khách hành hương tham quan, nhất là vào ngày 31/5 – ngày truyền thống Giáo xứ.

            Nhiều người đã ra về trong an bình. Nhiều người đã được sống lại niềm tin. Nhiều người đã được ơn lành hồn xác và nhiều người cũng đã tiếp tục cất tiếng cao rao Danh Mẹ Trà Kiệu.

            Lạy Mẹ Trà Kiệu – xin cầu cho chúng con. Amen.

Leave a Reply