Lịch Sử Trà Kiệu

Sự Tích NGƯỜI ĐẠO QUẢNG NAM

BBT: từ lâu lắm rồi, chúng tôi tình cờ có được bài này, rất tiếc rằng nguồn gốc và nguyên bản của bài này chúng tôi hiện không có trong tay, xem như một tài liệu đang trong giai đoạn thu thập thô, nên cũng xin đưa lên trang nhà để chia sẻ và cũng như mong nhận được sự cộng tác của nhiều người chung tay góp đá cho một Trà Kiệu thêm phong phú và nhiều mặt… Độc giả nào có thông tin về bài dưới đây xin vui lòng cung cấp cho chúng tôi. Cám ơn.

Sự Tích NGƯỜI ĐẠO QUẢNG NAM

 

Ngọn Nam phong thổi giòng xuôi mái,

Cơn Tây Chướng xốc trái bè thuyền

Quyết gá duyên cho an nam bắc

Gây mối loạn thành giặc đông tây

Tưởng là cầm động ít ngày

Ngờ cơn lỏng đất đánh vày thổi ra

Lộn ngoài giữa biển phong ba.

Lái lạn thôi đã thất tán hồn kinh

Chúa chí linh hoá sanh nước lửa

Luyện vàng ròng tẩy rửa tiền khiên

Kỷ mùi niên lịnh truyền mở hội (1859)

Đông thiên về sấm nổi sét vang,

Quảng Nam đầu quyển dư ngàn

Trường nhìn trường nhứt nghênh ngang thậm nhiều

Bị quan Phúc Nhựt đánh bêu

Trường Ba còn chẳng bao nhiêu sĩ hiền.

Bốn người đỗ bảng Trạng Nguyên

Thủ khoa Cựu Lợi chánh hiền Sa Thê.

Chánh danh người thiệt Xuy Tê

Họ là phạm tín tuổi vừa ba mươi

Kẻ xưng Bình Định quê người,

Tân Quang Hảo Thiện là nơi sanh thành

Mẹ cha thác thuở sơ sanh,

Cựu Sĩ thống tình bảo dưỡng lớn khôn

Khi Thầy phát vãng chẳng còn

Tớ lại nới quyền coi sóc giáo dân (nhơn)

Kể từ thọ mạng dời chơn,

Ra vào Phú Thượng Tùng Sơn ẩn mình

Canh Thân gặp hội thiên đình

Trung tuần chánh nguyệt bóng trăng vừa tròn

Án về cũng nội năm này,

Hạ tuần thất nguyệt là ngày xá sanh

Cảm thương tuổi hỡi xuân xanh

Tình ngay lẽ khuất oan hình can tâm.

Ngờ rằng dữ giặc mưu âm

Nên án bộ giam trảm quyết đầu bêu

Ông nghè cũng án âm mưu,

Chánh quê Phú Thượng gia cư Lộc Hoà

Niên canh chừng năm mươi ba,

Nguyễn Văn ấy họ hiệu là Xuy Mông

Vì vâng lịnh đấng bề trên,

Nên phải mắc vòng tử tội oan gia

Trước đã ly biệt cửa nhà,

Vì không xuất giáo phát ra các làng

Việc đã an còn mang lấy ách.

Lòng vui chịu chẳng trách giận ai

Chẳng mấy trai so tài văn võ.

Dẫu cho kẻ sành sỏ khôn bì

Quê hương ở tại Bàu Nghè

Oan chịu ấn giảo quyết chẳng chung,

Vì rằng đồ đệ thính tùng,

Ngờ cho thầy, tớ thông đồng mưu chăng ?

Tánh vốn thiệt Nguyễn Văn Bao Lộ

Là hiệu bảy trăng giam cầm

Phù sanh thế tục nhở nham,

Tuổi dầu mười bảy chẳng ham sống đời

Quan quên phỉnh dỗ hết lời

Không nghe đánh ép chẳng nơi nào lành

Vì lòng thương kẻ sơ sanh

Muốn cấn án hình cho nhẹ đôi phân

Ảnh hình buộc dưới ngón chân,

Roi giục đánh tới gót lần dời chân.

Quan giam chẳng sút phương chi

Không sờn dạ sắt chẳng suy lòng vàng.

Chúa cao quan thương ban phép lạ,

Xử ba lần cũng chã phải nao.

Chôn ngoài bãi cát cù lao

Lụt tấp rơi vào táng lại nơi cao

Ba quân thiên hạ ra vào,

Ai ai tấc lưỡi lắc đầu đều khen.

Tử sanh tay Chúa cầm quyền,

Thiệt là nhằm chữ tại Thiên rõ ràng.

Chú đã chê bỏ thế gian,

Lăm quyết thiên đàng tuổi hỡi mười ba.

Từ ngày lìa cách mẹ cha,

Dâng mình cho Chúa kể đà bốn năm

Hai thu ở tại Quảng Nam,

Lời nói việc làm ai nấy điều khen.

Bỗng đâu có lệnh trên truyền

Thầy vào Quảng Ngãi tớ liền dời theo

Một năm đó cũng mến yêu

Lâm thuở nước nghèo thầy tới hai phương.

Cao sâu ý nhiệm lo lường,

Ơ cùng Cựu Lợi 1 trường khoa thi

Cha con đã đến tuần thì,

Phú mạng 1 buổi vinh quy một ngày

Thảm thương thay kẻ ngay lâm luỵ

Trọng danh mà bị oan hình

Chính khai chú học cựu Linh

Yếu học giáo hữu vốn mình trọng danh

Chẳng qua ý nhiệm bề trên,

Nhìn ai thì nấy làm nên mọi bề

Vốn là người ở Bàu Nghè

Có con có vợ không hề sút ai

Niên canh chừng dưới ba mươi,

Nguyễn Văn là họ hiệu thời Líp Phê

Thính tùng giảo quyết án đề

Vui lòng cam chịu chả hề thở than

Phải như xuất giáo tại quan

Cũng chưa nên nỗi mà mang án này.

Bốn người trí mạng một ngày,

Ở bến Kẻ Thá tớ thầy thăng thiên

Hồn về triều Chúa vô biên,

Choá loà rực rỡ bình yên đời đời

Khoa này phó bảng một người.

Tên là đội Huệ hiệu là Líp Phê.

Trà kiệu ấy thiệt là Quê

Họ là Nguyễn Thanh tuổi bề năm mươi

Bình sanh giữ nghĩa Chúa Trời

Phò Vua giúp nước dư mườn năm nay

Vững cầm tờ phất trong tay,

Đạo binh tới sát chẳng hay chẳng sờn

Mình dầu trút hết chức quyền,

Án đề giải hậu keo sơn một lòng

Án lưu hai mươi ba ông,

Biện thô phường Đúc thác trong Tây Thành

Hai người đầu bèn khởi hành,

Phát vô Gia Định anh sanh hỡi còn.

Phát hồi Tư Nghĩa bảo đồn,

Nước non độc địa héo hon có ngày.

Năm binh Trà Kiệu án hay

Phần, Chỉ, Phổ, Công, Đạo phát nay Bắc Thành

Khi sau có một danh sanh

Cũng hay Kẻ Thơ phát hành trong năm.

Rày còn tại tỉnh mười lăm

Án lưu Gia Định còn nằm chờ trông.

Chánh phát thời mười hai ông

Còn ba cùm tột ngục trong tỉnh đường.

Cùm thời Thầy Lê Văn Lương,

Bà Nghi cấp dưỡng, bà Nguyên chủ nhà

Tôi còn lâm luỵ dòng Cha,

Nam nữ trẻ già bị cực thâm thương

Phát thời xã Lễ, xã Hưng

Thầy văn, Xã Học, Thầy Tường, Dang Cang

Biện Tuế, biện Điển Tùng Sơn,

Biện Phi, Biện Cống Cựu Sanh anh người.

Cũng là Xã Học Bàu Nghè

Lại với Danh Nổi người ngoài mới sao

Vững lòng quét đá chẳng xiêu,

Chị khó vì Chúa lâm phiền vì Cha.

Có phương thoát khỏi hình gia,

Thủ khoa thì được vậy mà chẳng tham

Kể phen quan đã áp giam

Bèn có lòng phàm phải đổ phải lưu

Cam tâm bất oán bất vưu (không giận không trách)

Bất cầu phú quý, bắt ưu khổ bần.

Án giam tam thập ngũ nhân (35 người)

Ba ông đã được trọn phần hiếu trung

Cả Hữu, Trùm Nghi, Thầy Long,

Lệnh trên phán tới thưởng công phu người

Huyện còn phát ba mươi hai

Vui chịu dẳng dai luỵ tiếc gian nan,

Ca rằng: Cự, Thành, Bính, Trị Hiệu,

Tự, Năng, Chiến, Nghiệm, Vân,

Bằng, Lân, Nho, Huề, Nghĩa

Thiêm, Đỉnh, Phán, Bông, Vân,

Vị, Thành, Phước, Việt, Thá, Sơn

Dự, Uẩn, Mùi, Trà, Dinh, Duyên

Xin hỡi gắng sống mà coi,

Lẽ nào bẻ nạn chống trời được sao ?

Bấy lâu lừng lẫy hùng hào,

Ra sức cuốc đào cội rễ còn nguyên.

Khen cho cây cứng rễ bền

Búa vồ rìu chém hai bên chi khờn

 Ngửa trông ơn, cứu cơn nước lửa

Muôn cậy Mẹ, trợ chúng tôi con

Tuy gió nam thổi héo don,

Cội rễ miễn còn ắt lại xanh tươi.

Phân ranh sáu mươi bốn người

Tám ông qua đời thắng trận toàn công

Ông Linh Trà Kiệu xóm trong,

Giáp Thơ, Giáp Huệ, Chú Thông, Danh Thành:

Giáp Thường, Danh Bổn, Danh Cang,

Sống xứng đạo Chúa, thác an cõi trời

Rày còn năm mươi sáu người

Linh đinh giữa vời sóng vật gió vay

Thi ca rằng:

Cần, Chuẩn, Ruộng, Bình, Huyền, Kiễm, Nghiệm

Thuấn, Nhơn, Sum, Hải, Phước, Thông, Thành

Được, Khuê, Thiên, hiến, Trường, Diên, Phước

Đức, Cảnh, Cẩn Liêm, Ý, Phóng, Tài

Linh, Phẩm, Đính, Kiêm, Thuỳ, Vi, Túc

Tỉnh, Nghiêm, Cao, Cải, Trị, Liêm, Sai

Diệm, Lân, Thị, Nai, Hiệu Nhị, Phó

Trường, Tứ, Kiên, Tâm, Hữu, Đức, Tài

Quan giam mắc mỏ nhiều bài,

Nhờ ơn Đức Chúa giúp vận gặp duyên

Phóng đi phóng lại ghê phen,

Quyết giam bêu hết sĩ hiền Gia Tô

Lòng dầu muốn đánh tay co mà nhìn

Chúa đã in đức tin bền chắc,

Mới khử trừ bầy giặc được an

Bốn người sợ bền diệnt oán

Chánh, Hân, Quảng, Giáo, tìm đường trốn đi

Chữ đã ghi: “Đào vi thượng sách

Nên cũng chẳng khá trách móc ai

Chấp dưỡng nuôi phát hồi bổn xã

Luận, Vị, thời lấy của che thân

Nhiều người các họ các làng,

Bao nài tốn của miễn an phần hồn

Sự nghiệp có hết chẳng còn,

Chạy nhém cửa nọ lo lòn miệng kia.

Rày sớm lo trau tria hòn ngọc,

Sau sẽ được phước lộc thanh nhân

Quê ta chẳng phải thế gian,

Mà hòng luống được bình an ở đời

Chánh quê ta vốn trên trời

Chúa sắm để dành thưởng tôi con người.

 

Người dịch

Võ Ngọc Tỷ

(dịch từ bản Chữ Nôm xa xưa)

* gạch dưới: tên người

 

Leave a Reply