@ Thơ
Mẹ Trà Kiệu
Bửu Châu đồi núi hoang vu,
Hòn Trọc thành tích thiên thu không nhoà.
Trà Kiệu vốn cách xa thăm thẳm,
Vì Đức Tin, ngàn dặm kể chi !
Gặp lúc bách hại hiểm nguy[1],
Giáo dân cậy Mẹ quyền uy mỗi ngày.
Chẳng bao lâu giặc hay kéo đến,
Bước đường cùng, ứng biến làm sao ?!
Tay không chọi với gươm đao,
Vững lòng cậy Mẹ quyền cao chữa bàu.
Giặc tiến chiếm Bửu Châu quan sát
Đặt bao nhiêu đại bác, thần công
Nhắm vào Trà Kiệu xung phong,
Quân ta cố thủ quyết không sờn lòng.
Cầu khẩn Mẹ để trông ơn cả,
Lòng thảo ngay, mẹ đã nhậm lời.
Địch quân thất vía rụng rời.
Khi nhìn thấy bóng một người trắng tinh:
Súng reo đạn hú chẳng kinh,
Đứng như pho tượng uy linh hằng giờ.
Bắn không trúng, ngẩn ngơ, kinh hải:
“Kìa bà nào đứng mãi trơ trơ ?
Lại thêm nhiều đội trẻ thơ,
Tay hươi gươm bạc càng giờ càng đông !”
Thấy điềm lạ, ngã lòng nãn chí,
Đánh không hơn càng bị chết dần;
Voi đưa ra trận cứng chân,
Tướng Chưởng Thuỷ Tý cam phần đầu rơi ![2]
Trận kéo đến ngày hai mươi mốt,
Quân ta bèn mở cuộc phản công,
Mười người trai tráng xung phong,
Tiến lên đồn giặc suốt trong đêm trường.
Vững cậy Mẹ, không sờn gian khổ,
Thắng địch quân ở chổ bất ngờ:
Thừa lúc đối thủ hở cơ,
Đột nhập cướp trại, phất cờ tiến quân.
Tướng giặc chết, quân phân tán loạn,
Rắn không đầu, chán nãn chạy dài.
Thật lời Chúa dạy không sai,
Vững đức tin sẽ có ngài ban ơn.
Núi Hòn Trọc dựng đền tạ Mẹ,
Để ghi ơn kẻ cứu dân.
Bửu Châu danh Mẹ vang rân,
Trà Kiệu diễm phúc thông ân Mẹ hiền
Ai về quận Duy Xuyên nhớ nhé,
Ghé Hòn Trọc viếng Mẹ hiển linh.
Miễn là có sẵn Đức Tin,
Tai ương thoát khỏi, bệnh tình thuyên an !
Hữu Nghị
Btt đp QN & ĐN số 38 và 39 tr. 22-23 1974
[1] Thời Chúa Nguyễn, phong trào Cần Vương bắt đạo đàng trong và đàng ngoài.
[2] Tên tướng của Văn Thân cầu đầu đàn voi ra trận