* Vatican. Mười điểm chính của Tông huấn Amoris Laetitia. Sau đây là mười điểm chính:
- Giáo hội cần phải hiểu các gia đình và các cá nhân trong tất cả sự phức tạp của họ. Giáo hội cần phải gặp gỡ họ ở nơi họ đang sống. Thế nên các mục tử phải “tránh những xét đoán không lưu tâm đến tính phức tạp của những hoàn cảnh khác nhau” (296). Không được “đóng khung hoặc xếp loại con người một cách quá cứng nhắc mà không dành chỗ cho sự phân định mang tính mục vụ và riêng biệt” (298). Đức Thánh Cha kêu gọi phải có sự cảm thông, thương xót và đồng hành.
- Vai trò của lương tâm là tối quan trọng trong những quyết định về luân lý.“Lương tâm cá nhân cần phải được hợp nhất với thực hành của Giáo hội trong những hoàn cảnh vốn vượt khỏi sự hiểu biết của chúng ta về hôn nhân một cách khách quan” (303). Nghĩa là, xác tín truyền thống về phán quyết cuối cùng của lương tâm cá nhân trong đời sống luân lý đã bị quên lãng. Giáo hội được “kêu gọi huấn luyện lương tâm, chứ không phải thay thế lương tâm” (37). Các mục tử cần giúp đỡ các tín hữu không chỉ tuân theo lề luật, mà còn biết “phân định”, tức là đưa ra quyết định sau khi cầu nguyện (304).
- Người Công giáo ly dị và tái hôn cần phải được hội nhập vào Giáo hội đầy đủ hơn. Bằng cách xem xét các chi tiết cụ thể hoàn cảnh của họ, bằng cách ghi nhận “những tình tiết giảm nhẹ, khuyên bảo họ ở “tòa trong” (nghĩa là cuộc nói chuyện riêng giữa linh mục và người ấy hoặc cả hai vợ chồng), và bằng cách tôn trọng điều này: lương tâm của một người có quyền quyết định cuối cùng về mức độ tham gia vào đời sống Giáo hội (305, 300). (Ở đây không nói về việc rước lễ, nhưng đó là một khía cạnh truyền thống của sự “tham dự” vào đời sống GH). Các đôi vợ chồng ly dị và tái hôn cần cảm thấy mình thuộc về Giáo hội.
- Mọi thành viên trong gia đình cần được khuyến khích sống đời sống Kitô hữu tốt. Nội dung Amoris Laetitia cũng bao gồm rất nhiều lời khuyên thiết thực của Đức Thánh Cha, có khi trích từ những bài huấn dụ và bài giảng về gia đình. Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở các đôi vợ chồng rằng một cuộc hôn nhân tốt đẹp là một “tiến trình động” và mỗi bên phải chịu đựng những gì không hoàn hảo. “Tình yêu không buộc phải hoàn hảo để cho chúng ta ca tụng” (122, 113). ĐTC nhấn mạnh rằng đừng ai cảm thấy mình không quan trọng hoặc bị loại ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa.
- Chúng ta không nên nói về những người “sống trong tội” nữa. Đức Thánh Cha nói rõ: “Không thể đơn giản nói rằng tất cả những người sống trong ‘hoàn cảnh bất thường’ là sống trong tình trạng mắc tội trọng” (301). Những người sống trong ‘hoàn cảnh bất thường’, hoặc các gia đình không-truyền-thống, chẳng hạn các bà mẹ đơn thân, cần được “cảm thông, an ủi và đón nhận” (49). Khi nói đến những người này, mà thực ra với tất cả mọi người, Giáo hội cần chấm dứt cách áp dụng luật luân lý, như thể chúng là –theo kiểu nói sống động của Đức Thánh Cha– “những tảng đá đè nặng trên cuộc sống con người” (305).
- Điều áp dụng được ở nơi này có thể không áp dụng được ở nơi khác. Đức Thánh Cha không chỉ nói về các cá nhân, nhưng còn về mặt địa lý nữa. “Mỗi quốc gia hoặc khu vực… có thể tìm kiếm các giải pháp phù hợp hơn với nền văn hóa của mình và nhạy cảm với những truyền thống của mình và nhu cầu của địa phương mình” (3). Thậm chí điều có ý nghĩa mục vụ ở nước này có thể không đúng ở nước khác. Vì lý do này và nhiều lý do khác, không phải mọi vấn đề đều có thể được giải quyết bởi huấn quyền (3).
- Mặc dù giáo huấn truyền thống về hôn nhân đã rõ, nhưng Giáo hội không nên chất gánh nặng cho con người với những kỳ vọng không thực tế. Hôn nhân là giữa một người nam và một người nữ, là bất khả phân ly; và hôn nhân đồng giới không được xem là hôn nhân. GH tiếp tục đưa ra lời mời gọi xây dựng hôn nhân lành mạnh. Đồng thời, GH cũng thường áp đặt trên con người một “lý tưởng thần học giả tạo về hôn nhân”, tách khỏi cuộc sống đời thường của con người. Có khi những lý tưởng này trở thành “gánh nặng to lớn”.
- Trẻ em phải được giáo dục về giới tính và tính dục. Trong một nền văn hóa thường thương mại hóa và hạ giá những diễn tả tính dục, trẻ em cần phải hiểu biết về giới tính trong “khung cảnh rộng lớn hơn của một nền giáo dục cho tình yêu và trao hiến cho nhau” (280). Đáng buồn thay, thân xác thường được xem đơn giản chỉ như “một đồ vật để sử dụng” (153). Giới tính luôn phải được hiểu là mở ra để đón nhận món quà của sự sống mới.
- Những người đồng tính cần được tôn trọng. Đang khi hôn nhân đồng giới là không được phép, ĐTC nói rằng ngài muốn tái khẳng định “trước hết” rằng người đồng tính cần phải được “tôn trọng trong phẩm giá của họ và được đối xử ân cần, và phải cẩn thận tránh ‘mọi dấu hiệu phân biệt đối xử bất công’, nhất là bất kỳ hình thức công kích hoặc bạo lực nào”. Gia đình có người đồng tính, lưỡng tính, chuyển giới cần được Giáo hội và các mục tử “hướng dẫn mục vụ với lòng tôn trọng” để người đồng tính có thể thực hiện trọn vẹn ý muốn của Thiên Chúa trong đời sống của họ (250).
- Mọi người đều được đón nhận. Giáo hội phải giúp đỡ các gia đình bất cứ gia đình ấy thuộc kiểu nào, và mọi người bất cứ ở trong hoàn cảnh sống nào, vì, ngay cả trong những khiếm khuyết của họ, họ vẫn được Thiên Chúa yêu thương và có thể giúp cho người khác cảm nghiệm tình yêu ấy. Tương tự như vậy, các mục tử phải làm sao cho mọi người thấy mình được ân cần tiếp đón ở trong Giáo hội. Amoris Laetitia đề ra nhãn quan về một Giáo hội mục tử và thương xót, khích lệ mọi người cảm nghiệm “niềm vui tình yêu”. Gia đình là một phần thiết yếu tuyệt đối của Giáo hội, bởi vì xét cho cùng, Giáo hội chính là “gia đình của các gia đình” (80). (hdgmvietnam.org)