Trên Vấn Đề Hướng Nghiệp

Số 2.1: Người Việt

BBT. Trong suốt hơn một năm qua, TraKieu.net nhận được cứ 3 tháng một lần loạt bài do anh Anphong chủ biên xoay quanh chủ đề hướng nghiệp. Một chủ đề mà anh rất tâm huyết, một cách đặc biệt dành cho các bạn trẻ con em Trà Kiệu.

Sau khi kết thúc phần I, các bạn có thể xem toàn bộ tại đây: Phần I. Xã Hội, chúng tôi xin được giới thiệu Phần II, với số đầu tiên 2.1 về Người Việt. Bài viết mang quan điểm cá nhân của tác giả, không nhất thiết phản ảnh quan điểm của TraKieu.net.

Xin cám ơn bạn đọc và cám ơn anh Anphong. 

 

Biên tập:  

Tôi đã đọc cuốn Người Việt, Phẩm Chất và Thói Hư-Tật Xấu do báo Tiền Phong chủ biên. Rất ít những nhận xét hay mà đa phần chỉ là những bài viết thể hiện sự bực dọc hơn là có tính tham luận. Gấp sách lại, tôi có cảm giác nản như vừa bước ra khỏi đám đông đang tố nhau loạn xạ. Thêm nữa, giống như câu chuyện Bộ Đồ Mới của Hoàng Đế, câu nói “thói xấu lớn nhất của người Việt là rất sợ nói về thói xấu của mình” là lời chặn trước khéo léo đối với những nhận định phê bình tập sách.

Tôi nghĩ người trẻ Việt rất muốn biết về dân tộc mình, nhưng có quá ít những bài viết hệ thống và sâu sắc để nói với người trẻ điều này. Tất cả chỉ có tô hồng và định hướng. Trong số này, tôi giới thiệu bạn đọc tập sách Tổ Quốc Ăn Năn của tác giả Nguyễn Gia Kiểng, một trong rất ít những cuốn sách hay viết về người Việt. Không có những chương hoa mỹ ngợi ca dân tộc. Chúng ta đọc để Xét Mình, để ý thức về bản thân và dân tộc.

Dưới đây là vài chủ đề được trích trong tác phẩm.

(Trích Tổ Quốc Ăn Năn, Nguyễn Gia Kiểng)

 

1.  Lời đầu:

Tôi sang Pháp du học năm 1961, lúc 19 tuổi. Là đứa con của đồng quê Việt Nam, tôi được nuôi dưỡng lúc ban đầu bằng hình ảnh cánh đồng, lũy tre, bờ ruộng, con cò, bằng những câu ca dao: bầu ơi thương lấy bí cùng, ta về ta tắm ao ta, v.v… Lớn lên một chút nữa, bằng những bài học quốc văn giáo khoa thư, truyện Phạm Công Cúc Hoa, truyện Lưu Bình – Dương Lễ, truyện Tấm Cám, truyện Phù Đổng Thiên Vương, truyện Thạch Sanh – Lý Thông. Khi chớm có nhận thức, bằng những trang sử oai hùng của dân tộc: Ngô Quyền phá quân Nam Hán, Lý Thường Kiệt phá Tống bình Chiêm, Trần Hưng Đạo phá quân Nguyên, Lê Lợi bình quân Minh, Quang Trung đại thắng quân Thanh; bằng những gương tuẫn quốc của Trần Bình Trọng, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu. Vinh dự nhất là sự hy sinh dũng liệt của Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Vinh dự vì trong trang sử này gia đình tôi có góp phần hy sinh. Trí tuệ của tôi cũng được phần đào tạo bằng thơ văn Nguyễn Công Trứ, bằng Truyện Kiều, bằng tư tưởng Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, bằng Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, bằng Hịch Tướng Sĩ của Trần Hưng Đạo, bằng nhiều thơ văn ái quốc, kề cả những bài thơ của Đặng Phương – mà sau này tôi được biết là Nguyễn Ngọc Huy.

Tất cả cái vốn liếng tinh thần và văn hóa đó khiến tôi mang nặng một niềm tự hào dân tộc khi vừa tới Pháp. Trong thâm tâm, tôi tin rằng Việt Nam hơn Pháp, cũng như tôi đã tin Việt Nam hơn Trung Hoa. Nước Pháp chẳng qua chỉ có một nền văn minh vật chất, nhưng thua xa Việt Nam về văn hóa, tâm linh và sự thâm thúy. Nói chung, Việt Nam hơn Pháp vì phương Đông hơn phương Tây. Phương Đông là nền văn minh lâu đời về tư tưởng, đạo đức và văn hóa, phương Tây chẳng qua chỉ hơn nhất thời về khoa học và kỹ nghệ. Phương Đông có chiều sâu trong khi phương Tây chỉ có bề rộng. Phương Đông có bề trong, phương Tây chỉ có bề ngoài; phương Đông có hồn trong khi phương Tây chỉ có xác. Tôi còn nhớ đã nhiều lần tranh luận gay go với những bạn học người Pháp cũng đầy tự hào dân tộc như tôi.

Sau một vài năm tôi thạo tiếng Pháp. Tôi ham đọc sách nên kiến thức về lịch sử, chính trị, văn hóa Pháp còn có phần trội hơn cả nhiều bạn Pháp. Tôi tin là mình đã hiểu rõ nước Pháp nói riêng và phương Tây nói chung.

Tất cả dần dần thay đổi với thời gian. Càng sống với người Pháp, càng làm việc với họ và lại có dịp qua lại thường xuyên các nước châu Âu tôi càng khám phá ra rằng tôi chưa hiểu họ. Dần dần niềm tự hào dân tộc giảm đi, nhường chỗ cho một sự hoang mang và sau cùng là một sự chua xót và thẹn thùng về sự thua kém của đất nước Việt Nam và con người Việt Nam. Tôi cũng dần dần có dịp tiếp xúc với người Mỹ và qua lại nước Mỹ. Có một nỗi đau càng ngày càng lớn trong tâm hồn tôi, nó đến một cách chậm chạp, lặng lẽ nhưng mãnh liệt.

Tôi nhận ra người châu Âu rất nhân bản, thâm thúy, đầy óc sáng tạo, nền văn minh của họ hơn hẳn nền văn minh của đất nước ta, văn hóa của họ vượt hẳn văn hóa của nước ta cả về lượng lẫn phẩm.

Tôi tự hào về trống đồng, về thành Cổ Loa, về chùa Hương, về chùa Phổ Minh, về các lăng tẩm ở Huế để rồi phải xấu hổ trước công trình nghệ thuật nhiều gấp bội, cổ kính hơn nhiều lần, vĩ đại hơn nhiều lần và tinh xảo hơn nhiều lần mà tôi gặp được mỗi khi dừng chân ở bất cứ một địa điểm nào tại các nước Châu Âu. Thì ra tôi đã giống như một con ếch ngồi đáy giếng.

Ngũ thập tri thiên mệnh. Năm mươi tuổi biết mệnh trời. Năm nay tôi đã ngoài 50 tuổi, không biết tôi đã tri thiên mệnh chưa, nhưng tôi đã khám phá ra một điều: đó là cái gì dù lạ lùng đến đâu cũng đều có một giải thích giản dị. Các nước phương Tây vượt trội bởi vì văn hóa của họ lành mạnh, tâm lý của họ đúng đắn. Nước Việt Nam đau khổ và nghèo nàn bởi vì văn hóa Việt Nam thui chột và tâm lý người Việt Nam bệnh hoạn. Điều đó dĩ nhiên chẳng có gì mới đối với bạn đọc và cũng chẳng có gì mới đối với tôi, chúng ta đã biết từ khá lâu rồi. Có điều cái biết bây giờ khác với cái biết của trước kia. Giữa hai sự hiểu biết đó có một khoảng cách, đó là kinh nghiệm. Kinh nghiệm là gì nếu không phải là sự khám phá lại những chân lý đơn giản và có ích?

Nhưng kinh nghiệm không phải chỉ đem lại cho tôi sự chấp nhận thua kém, và niềm đau của sự thua kém đó. Nếu chỉ có thế thì chẳng có gì để nói và cuốn sách này không có lý do gì để đến với độc giả. Kinh nghiệm đó còn giúp tôi khám phá ra rằng Việt Nam có thể tiến lên, tiến xa và tiến cao. Với điều kiện là phải nghĩ lại mình.

Đó là lý do ra đời của cuốn sách khiêm nhường này.

Xét lại mình là một thao dượt có khi rất đau nhức, nhưng phải nhìn chân dung mình ngay cả khi nó không đẹp. Tôi xin lỗi các độc giả mà những trang sau có thề làm phiền lòng. Khi một sự thực làm phiền lòng thì đó là một bằng chứng rằng sự thực đó cần được nói ra. Cuốn sách nhỏ bé này, nếu là một phân tích không nhân nhượng về nước Việt và người Việt thì cũng không phải là một cuốn sách tiêu cực, nó muốn được là một cuốn sách của hy vọng và niềm tin. Và tác giả thực sự hy vọng.

Sẽ có nhiều độc giả nhận xét rằng cuốn sách này có nhiều thiếu sót. Thiếu sót chắc chắn là có và có nhiều, nhưng có hai loại: những điều thực sự tác giả không nhìn thấy và những điều tác giả thấy mà không nêu ra. Quan niệm của tôi là không nhắc lại những gì mình nghĩ là đa số đã đồng ý để chỉ tập trung thảo luận về những gì mà nhiều người chưa đồng ý và nhất là những gì mà đa số không chấp nhận. Tôi nghĩ nên cố gắng để nói ra những điều mới, và nếu trong mười điều mới nói ra có tới chín điều sai và chỉ một điều đúng thì cũng còn có ích hơn là nói mười điều đúng cả mười nhưng đều là những điều đã biết. Khi không chấp nhận một ý kiến, người ta hay cho rằng ý kiến đó là sai, là dở. Nhiều độc giả sẽ thấy nhiều điều nói ra trong những trang sau là sai và đánh giá tác giả là dở. Tôi chấp nhận sự kiện đó. Tôi cho rằng nói ra những điều mình nghĩ là đúng dù biết rằng sẽ có nhiều người cho là sai và đánh giá thấp mình là một thái độ khiêm tốn. Đó là cách khiêm tốn của tôi.

Cuốn sách này đề tặng ba người: Hồ Quì, vợ tôi, Hiền con trai tôi và Hòa con gái tôi.

Hồ Quì thực ra là đồng tác giả cuốn sách này. Hồ Quì đã thảo luận với tôi về mọi ý kiến trong cuốn sách này, đã đọc lại, sửa chữa và góp ý. Điều còn quan trọng hơn nữa là Hồ Quì đã cho tôi niềm vui trong lúc viết. Không những thế, tôi còn được vui vẻ chấp nhận một ngân sách thua lỗ. Với kinh nghiệm của những cuốn sách chính trị đứng đắn đã phát hành, cả hai chúng tôi đều không có một ảo tưởng nào về tương lai tài chánh của cuốn sách.

Còn về Hiền và Hòa thì đây chỉ là một sự công bằng. Cuốn sách này là của chúng. Tôi không có may mắn được dành toàn thời gian cho hoạt động và nghiên cứu chính trị. Tôi có hoạt động nghề nghiệp và hơn thế nữa có hoạt động nghề nghiệp rất vất vả. Cuốn sách này đã được viết và sửa chữa trong thời gian mà bố mẹ chúng đáng lẽ phải dành cho chúng.

[…] Cuốn sách này cũng đề tặng ba người đã mất. Lê Văn Đằng, Vũ Tiến Đạt và Nguyễn Hoàng Quốc Phái. Đằng và Đạt là bạn, Quốc Phái là con gái đầu lòng của tôi.

Sáng thứ bảy 4-5-1994 khi bảy người chúng tôi trong Ban Thường Trực của TL họp mặt trong phòng họp riêng của tôi, chúng tôi uống cà-phê, ăn sáng và thảo luận rất thoải mái. […] Chúng tôi không hề nghĩ rằng một lát nữa một trong bảy người chúng tôi sẽ chết. Phiên họp vừa hết, Đằng muốn thêm một lời kết luận. Đang phát biểu, Đằng thình lình ngừng lại, ngất xỉu và chết ngay sau đó.

Đằng cùng tuổi với tôi, đậu tú tài cùng một năm với tôi và đi du học cùng một chuyến máy bay với tôi, rồi cùng về nước phục vụ trong cùng khoảng thời gian với tôi. Từ ngày gặp nhau chúng tôi vừa là chí hữu vừa là anh em. Đằng không phải là người bạn mà còn là một phần của con người và trí tuệ của tôi. Đằng mồ côi cha từ năm ba tuổi, rồi mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm sáu tuổi, sống nhờ sự nuôi dưỡng và thương yêu của các anh chị rất nghèo. Lúc mới tới Pháp, Đằng không có cả áo lạnh, phải lấy dầu cù-là thoa khắp cả người chống rét. Đằng xuất sắc về Toán, đậu thủ khoa kỳ thi tuyển vào Đại Học Sư Phạm ban Toán, nhưng khi được học bổng đi Pháp lại chọn học kinh tế tài chánh và cũng thành công mỹ mãn. Về Sài Gòn làm cố vấn tổng trưởng tài chánh, Đằng vẫn cố dành thì giờ để đi dạy đại học. Cuộc đời của Đằng chỉ có cố gắng và phấn đấu. Đằng không những là chuyên gia kinh tế xuất sắc – nhiều người, trong đó có tôi, coi Đằng là chuyên gia kinh tế tài chánh lỗi lạc nhất của Việt Nam – mà còn rất đam mê chính trị. Ở bên ngoài Đằng có vẻ là một người trầm mặc, ôn hòa, nhưng trong nội bộ tổ chức TL chúng tôi, Đằng luôn luôn biểu quyết cho những lập trường táo bạo nhất. Có lẽ đó là cái bản chất của đứa con của đất miền Trung sỏi đá, nơi con người luôn luôn phải cứng cỏi và bướng bỉnh với thiên nhiên để sống. […] Tôi đã học hỏi ở Đằng rất nhiều, đến nỗi giờ này tôi không thể phân biệt được trong những kiến thức và nhận thức của tôi cái gì là của tôi, cái gì là của Đằng.

Tối hôm Đằng chết, khi đi thăm xác Đằng về, vợ tôi ngồi khóc và nói với tôi: Rồi anh sẽ ra sao đây? Anh sẽ chẳng bao giờ tìm được một người bạn như thế nữa.

Ngày 4-11-1961, ngày tôi rời Việt Nam đi du học để gặp Đằng trong chuyến máy bay và kết nghĩa anh em, cũng là ngày tôi nhìn Vũ Tiến Đạt lần cuối. Đạt ra tiễn tôi tại phi trường hôm đó. Đạt cũng đậu tú tài năm đó nhưng không đi du học. Tôi quen Đạt không lâu trước đó, nhưng Đạt để lại trong tôi một ấn tượng cực mạnh. Tôi có một nhóm bạn cùng lứa tuổi họp nhau để bàn chuyện đất nước. Hoạt động chính trị duy nhất của chúng tôi là vận động cho liên danh Hồ Nhật Tân – Nguyễn Thế Truyền trong cuộc tranh cử tổng thống với Ngô Đình Diệm năm 1961. Rồi một hôm một người bạn đem Đạt tới. Đạt không giống ai. Hắn có bản năng và lối phát biểu mạnh mẽ một cách lạ lùng. Hắn đã đọc và thuộc vô số lý thuyết và phương pháp hoạt động chính trị. Hắn quả quyết một cách đáng sợ. Đạt không giấu ai ý định của hắn là muốn làm tổng thống Việt Nam sau này. Đấy là một cao vọng quá lớn và có thể là kềnh càng với một thanh niên 18 tuổi, nhưng Đạt trả giá cho tham vọng ấy một cách sòng phẳng. Hắn cố gắng vượt bực và cư xử một cách hùng tráng. Đậu xong luật, Đạt đi lính, hắn nói không dám đi lính là hèn, và hơn thế nữa hắn cho rằng đi sĩ quan cũng không phải là can đảm vì không nguy hiềm lắm. Hắn đi lính từ binh nhì, vào các đơn vị tác chiến, lên đại úy, rồi thi đậu khóa tuyển lựa tham vụ ngoại giao đầu năm 1975. Việc chuyển sang ngoại giao chắc chắn nằm trong kế hoạch trau dồi bản lãnh của hắn. Điều tiếc nhất trong đời tôi là trong suốt thời gian ở Việt Nam sau khi từ Pháp về tôi đã không gặp được hắn, hắn ít về Sài Gòn và về trong những lúc tôi bận chuyện khác. Hắn cũng chỉ về chớp nhoáng rồi lại đi ngay. Mãi sau này tôi mới biết rằng hắn đã về bộ ngoại giao từ đầu năm 1975, nhưng lúc đó tình hình Việt Nam đã bắt đầu biến chuyển nhanh chóng khiến tôi không còn thì giờ và tâm trí để tìm gặp các bạn cũ nữa.

Trong trại cải tạo, sau ngày 30-4-1975, Đạt hiên ngang thách thức, hắn không nhận tội, không xin khoan hồng, lúc nào cũng dõng dạc đòi một điều duy nhất: được cư xử như một tù binh theo công ước quốc tế. Hắn cũng kêu gọi đồng đội đừng ngã lòng, phải giữ lấy khí phách và danh dự. Có lẽ hắn tự coi là một tổng thống và phải cư xử xứng đáng như một tổng thống. Một hôm hắn bị bắn chết trong lúc đi lao động, người ta bảo hắn định vượt trại. Điều này không ai kiểm chứng được.

Lúc đó tôi cũng đang ở tù.

Khi ở tù ra, sau hơn ba năm, tôi đã khóc rất nhiều trên mộ Quốc Phái, con gái duy nhất của tôi, chết trong lúc cả cha mẹ nó đang bị giam giữ. Lúc đó Quốc Phái mới được sáu tháng. Tôi tự hỏi tại sao tôi có thể khóc lâu như thế, và tôi hiểu rằng tôi sẽ khóc cho đứa bé này ngay cả nếu nó không phải là con tôi. Tôi khóc cho một đứa bé gái duy nhất, xinh đẹp của một kỹ sư và một bác sĩ, một đứa bé mà cuộc đời đã hứa cho tất cả, nhưng đã chết như một đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ và được chôn cất sơ sài trong một nghĩa trang tiều tụy. Tôi khóc cho nạn nhân vô tội nhất của cuộc chiến này. Tôi chợt hiểu rằng tôi không thể bỏ cuộc. Nếu tôi không vì đất nước quyết định hồi hương thì Quốc Phái đã sinh ra ở Paris, sẽ lớn lên trong tình yêu và hạnh phúc, sẽ thành công mỹ mãn. Tôi cần một thắng lợi để làm quà tặng và xin lỗi Quốc Phái và thắng lợi đó phải thực quảng đại, xứng đáng với Quốc Phái và xứng đáng với nỗi đau không bao giờ nguôi trong tôi.

Trong thứ tự những người được đề tặng, độc giả có thể hỏi tại sao tôi không đề những người đã chết trước những người còn sống? Lý do là vì mặc dầu những tình cảm vô cùng tha thiết và vô cùng sâu đậm với người đã khuất, sự sống vẫn phải đi trước. Cuốn sách này muốn được là cuốn sách của hy vọng, viết cho những con người của đất nước hôm nay và ngày mai.

 

2. Sơn Hà Gấm Vóc

 Tôi còn nhớ một bài thơ học thuộc lòng lúc ở lớp Nhất tiểu học, không biết của tác giả nào:

“Trên dải đất chạy ven bờ biển cả

Dưới trời Đông Nam Á rạng màu xanh

Một giống người nhỏ bé nhưng tinh anh

Đã xây đắp một sơn hà gấm vóc…”

Trong trí óc non yếu của tôi, nước Việt Nam ta rộng rãi và phì nhiêu, người Tàu chen chúc nhau phải di dân sang nước ta lập nghiệp. Đất nước ta, theo những bài học đầu đời của tôi và được nuôi dưỡng cho đến tuổi thanh niên, đầy tài nguyên phong phú. Nước ta đầy hứa hẹn và có một tương lai vô cùng xán lạn.

Ý nghĩ đất nước ta có tài nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú là ý nghĩ rất lan tràn. Tôi đã gặp không biết bao nhiêu người quả quyết như vậy. Sau 30-4-1975, trong trại cải tạo, tôi được nghe rất nhiều sĩ quan, công chức của miền Nam cũ lên án đế quốc Mỹ là đã tới Việt Nam để cướp bóc tài nguyên. Một anh cựu trung úy và tốt nghiệp văn khoa còn phát biểu rằng sở dĩ đế quốc Mỹ lập căn cứ Khe Sanh là vì ở đấy có một mỏ uranium lớn. Một công chức khác nói rằng Mỹ đến Việt Nam, hất Pháp ra là vì những giếng dầu khổng lồ của Việt Nam. Có anh còn nói các giếng dầu của Việt Nam, so với các giếng dầu ở Trung Đông như con voi so với con tem. Anh ta không giải thích tại sao Mỹ lại rút lui, bỏ rơi những giếng dầu khổng lồ đó.

Dĩ nhiên họ phát biểu vì hoàn cảnh. Họ thua trận, họ vào tù, họ phải mạt sát chế độ Việt Nam Cộng Hòa và đế quốc Mỹ để mong được khoan hồng. Nhưng những điều họ nói về tài nguyên đất nước là thành thực. Họ tin như thế. Tôi hỏi anh sĩ quan đã nói về mỏ uranium ở Khe Sanh thì anh ta không có một dữ kiện nào cụ thề cả, nhưng anh ta tin như thế và tin chắc như đinh đóng cột.

Không hiểu vì lý do nào mà hầu hết mọi người Việt Nam đều có niềm tin sai lầm rằng đất nước Việt Nam bao la, tài nguyên của Việt Nam vô tận. Cuốn Địa Lý Kinh Tế Việt Nam (Văn Trai, chủ nhiệm bộ môn Địa Lý Kinh Tế Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hò Chí Minh, xuất bản lần thứ 4 năm 1990) khẳng định: “Các tài nguyên quặng mỏ nước ta có nhiều loại trữ lượng lớn, chất lượng cao, dễ khai thác, bảo đảm phát triển công nghíệp trong nước lâu dài và mạnh mẽ, đồng thời còn có thể xuất khẩu nữa”. Niềm tin ở tài nguyên to lớn của đất nước rất thường gặp trong nhiều bài viết, bài nói và tác phẩm của các tác giả thuộc mọi khuynh hướng chính trị. Niềm tin này tạo ra một sự yên tâm tai hại. Hình như mọi người Việt Nam đều tin rằng đất nước mình thế nào rồi cũng sẽ phú cường, do đó mà mất đi sự lo lắng cần thiết đề giữ gìn đất nước và xây dựng tương lai. Và cũng vì thế mà có tâm lý phá hoại và vô trách nhiệm.

Sự yên tâm này không những chỉ tai hại mà còn làm chết người. Đó là tâm lý ngự trị trong đầu óc những người lãnh đạo đảng cộng sản. Năm 1945 họ thực hiện chính sách tiêu thổ kháng chiến, họ đập phá tất cả các thành phố, đường bộ, đường sắt. Trong chiến tranh họ không bao giờ lưỡng lự khi phá hoại bất cứ một công trình nào. Một bài tình ca yêu nước của người cộng sản có hai câu:

“Em đi phá lộ Đông Dương,.

Anh về đánh bốt Mỹ Lương, Đông Hà.”

[Đánh bốt có nghĩa là đánh đồn. Trẻ em thường hát sai thành đánh đốt].

Thơ mộng quá! Còn ông Hồ Chí Minh? Ông phát biểu quyết tâm chinh phục miền Nam như sau: “Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy không thể nào thay đổi”. Ghê gớm không! Sẵn sàng chấp nhận chiến tranh đến sông cạn, núi mòn, không lý gì đến sự tàn phá mà đất nước có thể phải chịu đựng. Một lần khác ông tuyên bố rằng đế quốc Mỹ có thể gia tăng ném bom tại Bắc Việt, có thể phá hoại đường sá, hay tiêu hủy nhiều thành phố nhưng sẽ không bao giờ làm cho đảng cộng sản Việt Nam nhụt ý chí đấu tranh.

Độc giả đừng vội nghĩ rằng tôi đang chống cộng và kề tội người cộng sản. Tôi nghĩ rằng trong thâm tâm không nhiều thì ít ai cũng yêu nước, và người cộng sản cũng thế. Có lẽ sai lầm cơ bản là chúng ta không đánh giá đúng tiềm năng của đất nước và mức độ chịu đựng tối đa của nó. Chúng ta nghĩ rằng nước ta có tiềm năng vô tận và vì thế có bị đập phá cũng không sao.

Nếu ngược lại ta ý thức rằng đất nước ta nhỏ bé chật hẹp, tài nguyên của ta ít ỏi, có lẽ ta sẽ hành xử rất khác. Ta sẽ quí từng con đường nhỏ, từng cây cầu, từng dãy phố, từng căn nhà. Chúng ta sẽ tránh được những phí phạm và những cuộc chiến tranh làm chết hàng triệu người và tàn phá đất nước.

Mà sự thực ta có gì đâu?

Mỏ quan trọng nhất trong đất liền của ta là than đá anthracite với trữ lượng 6 tỷ tấn. Sản lượng hàng năm là 8 triệu tấn, nếu khai thác tối đa có thể đạt tới 20 triệu tấn. Có nên khai thác tối đa hay không lại là một vấn đề khác. Nhưng ngay cả như thế sản lượng than đá của ta cũng chỉ bằng ba phần ngàn sản lượng hàng năm của thế giới, thua xa Cao Ly (77 triệu tấn), Ba Lan (150 triệu tấn), Đức (77 triệu tấn), Anh (93 triệu tấn). Đó chỉ là để kể một vài nước có diện tích tương đương hay nhỏ hơn nước ta. Và tất cả những nước này còn nhiều tài nguyên phong phú khác mà ta không có.

Mỏ sắt của ta, được kể như một tài nguyên lớn, chỉ có trữ lượng tổng cộng 540 triệu tấn – nghĩa là rất khiêm nhường, tương đương với sáu tháng sản xuất trên thế giới -, đã thế lại phân tán ra trên 200 mỏ, cho nên không thể khai thác qui mô được.

Các mỏ khác của ta đều không đáng kể. Thí dụ như nickel, một trong những tài nguyên được coi là quan trọng của ta chỉ có một trữ lượng tổng cộng cho các mỏ là 3 triệu tấn, nhưng phần lớn lại pha lẫn trong chrome, ở Cổ Định (Thanh Hóa), tương đương với một năm sản xuất của hòn đảo nhỏ xíu Nouvelle Calédonie.

Ngoài ra ta có hai mỏ khác có triển vọng khá là mỏ chrome ở Thanh Hóa (trữ lượng 21 triệu tấn) và mỏ apathite ở Lào Cai (trữ lượng công nghiệp 135 triệu tấn). Từ vài năm gần đây, Việt Nam trông đợi rất nhiều vào dầu khí. Nhưng đây cũng chỉ có thể là một hy vọng rất khiêm nhường. Trữ lượng của ta, theo những ước đoán lạc quan, không bao nhiêu, chỉ vào khoảng 400 triệu tấn (thế giới: 400 tỷ tấn). Sản lượng dầu lửa hợp lý của ta sau này chỉ có thể đạt tới mức tối đa 15 triệu tấn mỗi năm, nghĩa là tương đương với một tuần lễ sản xuất của Mỹ, hoặc Nga, hoặc Saudi Arabia, trừ khi ta áp dụng chính sách ăn xổi ở thì, khai thác cho hết thực nhanh chóng và bất chấp tương lai. Trong trường hợp này, những đầu tư thiết bị vào dầu lửa sẽ thành vô dụng sau một thời gian ngắn. Mặt khác, nhu cầu năng lượng của ta sẽ tăng lên mau chóng (ít ra ta phải hy vọng như vậy) cùng với đà phát triển, và các mỏ dầu chỉ giúp ta giảm nhẹ hóa đơn dầu nhập cảng mà thôi.

Khí đốt hy vọng mới của Việt Nam cũng vậy, với một trữ lượng 100 tỷ mét khối (hy vọng rằng ta còn tìm được thêm), 1 % của trữ lượng trong vùng và 7 phần mười ngàn (7/10.000) trữ lượng thế giới, ta cũng chỉ có thể hy vọng bớt đi phần khí đốt phải mua vào mà thôi. Nếu cần một con số nói lên sự nghèo nàn về tài nguyên thiên nhiên của ta thì đó là con số 13. Hiện nay, năm 2000 chúng ta đứng hàng thứ 13 trên thế giới về dân số với 78 triệu người, nếu không kiểm soát được đà gia tăng thì đến đầu thế kỷ 21 chúng ta sẽ qua mặt Đức (80 triệu dân) để lên hàng thứ 12, nhưng ta không đứng trong số 13 nước đầu, mà cũng không đứng trong số 30 nước đầu, về một tài nguyên nào cả.

Tài nguyên đã giới hạn như thế, hiện nay chúng ta lại rất nghèo, rất lạc hậu, rất thua kém. Liệu chúng ta có một tương lai nào không? Và nếu muốn có thì phải làm thế nào? Hãy khoan trả lời những câu hỏi đó. Nhưng ngay tại đây ta có thể nói rằng ý thức được hoàn cảnh khó khăn của mình tự nó cũng đã là một hành trang quí báu, bởi vì nó cho ta một cách ứng xử đúng đắn, nó đem lại cho ta một thái độ lo lắng và thận trọng trong việc dựng nước, nó giúp ta ý thức được sự cần thiết của cố gắng.

 

3. Một Dân Tộc Tinh Anh

Trong cuốn sách Việt Nam Sử Lược quen thuộc với mọi người, Trần Trọng Kim viết về người Việt Nam như sau:

Về đằng trí tuệ và tính tình thì người Việt Nam có cả các tính tốt và các tính xấu. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức: lấy sự nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỉ quyệt, và hay bài bác nhạo chế. Thường thì nhút nhát, hay khiếp sợ và muốn sự hòa bình, nhưng mà đã đi trận mạc thì cũng có can đảm, biết giữ kỷ luật.

Tâm địa nông nổi, hay làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang và ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Hay tin ma tin quỉ, sùng sự lễ bái, nhưng mà vẫn không nhiệt tín tôn giáo nào cả. Kiêu ngạo và hay nói khoác, nhưng có lòng nhân, biết thương người và hay nhớ ơn.

Trần Trọng Kim, xuất thân là một giáo viên, được gởi đi học và tốt nghiệp Trường Thuộc Địa (Ecole Coloniale) tại Pháp. Trường Thuộc Địa Pháp vào đầu thế kỷ này là một trường có trình độ trung học, có mục đích khai mở nền văn minh Pháp nói riêng và phương Tây nói chung cho những trí thức Việt Nam đầu tiên để họ về nước phục vụ cho chính quyền thuộc địa. Năm 1911, ông Hồ Chí Minh, lúc đó làm bồi tàu và mới tới Pháp, cũng có làm đơn với lời lẽ thống thiết viện cớ có cha đậu tiến sĩ Hán học để xin vào trường này, nhưng bị từ chối.

Tuy vốn liếng khoa bảng không có bao nhiêu (nhưng vào thời đó trình độ của Trường Thuộc Địa cũng đã là cao lắm rồi), nhưng ông Trần Trọng Kim đã dày công học hỏi và nhờ trí tuệ xuất sắc ông trở thành một học giả lớn. Ngoài kiến thức uyên bác, Trần Trọng Kim còn là một người liêm khiết, lương thiện. Ông có uy tín rất lớn trong thời đại của ông. Năm 1945, khi Nhật đảo chánh Pháp, trả độc lập trên nguyên tắc cho Việt Nam, ông Trần Trọng Kim, lúc đó đã về hưu, được vua Bảo Đại mời ra làm thủ tướng theo ý của người Nhật. Sự kiện ông được chỉ định làm thủ tướng là một ngạc nhiên cho rất nhiều người. Phần đông giới theo dõi thời cuộc lúc đó chờ đợi ông Ngô Đình Diệm, một cựu thượng thư, có uy tín, có tham vọng chính trị và nhất là đã giao dịch với Nhật từ lâu. Ông Diệm đã tham gia từ 1941 tổ chức Việt Nam Phục Quốc Hội của hoàng thân Cường Để do Nhật đỡ đầu. Người ngạc nhiên nhất chính là ông Ngô Đình Diệm. Thực ra ngay từ khi đổ bộ vào Việt Nam, Nhật cũng đã có ý định dùng Trần Trọng Kim như một lá bài thay thế cho Ngô Đình Diệm, có lẽ vì họ nghĩ Ngô Đình Diệm là một chính khách sắc bén hơn và có thể đòi hỏi họ nhiều hơn là Trần Trọng Kim. Tuy vậy ông Trần Trọng Kim cũng đã dần dần đòi hỏi được nơi người Nhật tất cả những nhượng bộ cần thiết. Nếu người Nhật coi Trần Trọng Kim là người không đáng lo ngại thì người Pháp sau này lại lo ngại Trần Trọng Kim và làm áp lực để Bảo Đại chọn Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng năm 1948 thay vì Trần Trọng Kim. Sau đó Trần Trọng Kim qua Phnom Penh sống với người con gái, ông mất vài năm sau đó, khi vừa trở về Việt Nam.

Trần Trọng Kim tóm lược cuộc đời chính trị của ông trong thiên hồi ký ngắn Một cơn gió bụi. Có lẽ những ai có ý định viết hồi ký đều nên đọc cuốn sách nhỏ này trước đã. Đó thực sự là một cuốn hồi ký. Nó được viết một cách thực thà, lương thiện, rành mạch, điều ít thấy trong các cuốn hồi ký khác. Hồi ký là một loại sách đặc biệt. Nó có tác dụng chính, và có thể nói là duy nhất, là ghi chép các sự kiện để làm chứng cho một giai đoạn. Đòi hỏi duy nhất của nó là phải trung thực, phải có giá trị của một tài liệu. Người Việt Nam, nhất là các tướng tá quân đội miền Nam cũ, hay dùng hồi ký để bóp méo sự thật, tán dương hay chạy tội cho mình, bôi nhọ người khác. Những hồi ký như vậy không thể dùng làm tài liệu. Trần Trọng Kim được mọi người kính trọng, người ta kính trọng kiến thức của ông và người ta còn kính trọng hơn nơi ông nhân cách của một trí thức chân chính. Nếu không phải Trần Trọng Kim mà một người khác viết ra những dòng trên, thì chắc chắn sẽ bị cả một loạt bài đả kích và mạt sát thậm tệ vì đã dám coi thường người Việt. Nhưng vì là do Trần Trọng Kim viết ra nên không ai cãi lại, và hầu hết nhìn nhận là đúng. Tôi cũng có đọc trong nhiều cuốn sách cũ của các học giả Pháp một nhận định tương tự như vậy về người Việt, không biết có một sự tham khảo nào không. Điều chắc chắn là Trần Trọng Kim chỉ viết những điều ông tin là đúng.

Nói chung, Trần Trọng Kim nhận định người Việt nam có cấu tạo cơ thể tốt có trí óc tương đối tốt, siêng năng, hiếu học, biết trọng đạo đức, nhưng tâm lý thì rất dở. Ông không nói người Việt Nam nói chung có yêu nước hay không, đó cũng là một điều lạ trong cuốn sách sử.

Tôi đã đề cập phần trước tới nước Hòa Lan như là một kỳ quan của thế giới. Quan sát kỹ người Hòa Lan, thành thực tôi không thấy họ thông minh hơn người Việt, hay có hơn cũng không hơn bao nhiêu. Họ cũng không chăm chỉ hơn người Việt nam, hay có hơn cũng không hơn bao nhiêu. Vậy mà họ đã tạo nên được quốc gia đáng phục nhất thế giới. Tôi làm việc với người Pháp và cũng đi tới một nhận định tương tự. Riêng người Anh thì phải nói tuy họ có nét độc đáo riêng, nhưng trí tuệ của họ cũng chỉ xấp xỉ như người Hòa Lan và người Pháp, ngoài ra họ lười biếng hơn hẳn người Việt Nam.

Vậy mà tại sao các quốc gia đó giàu mạnh đến thế, trong khi nước ta nghèo nàn lạc hậu và tang tóc đến thế?

Khi một máy vi tính hoạt động dở thì chỉ có hai giải thích: một là cái hardware (phần vật liệu hay phần cứng) của nó dở, hai là cái software (phần trí liệu hay phần mềm) của nó dở. Chất liệu, nghĩa là cấu tạo cơ thể và trí óc của người Việt Nam tốt. Vậy thì phải chăng cái software, nghĩa là cái văn hóa và tâm lý, của người Việt Nam tồi dở? Tôi tin như thế. Một người bạn tôi sau hơn một thập niên làm cố vấn cho các chính phủ Châu Phi đã chỉ rút ra được một kết luận rõ nét: các nước đó không vươn lên được vì trở ngại văn hóa và tâm lý.

Đọc những bài đóng góp gần đây của các tác giả Việt Nam về vấn đề phát triển đất nước, phần đông có giá trị, nhiều bài rất xuất sắc, tôi ít thấy đề cập đến yếu tố tâm lý (hay văn hóa cũng thế vì tâm lý và văn hóa rất gần nhau), trong khi đó tất cả các nhà bác học có thẩm quyền ở tầm vóc thế giới về vấn đề phát triển đều coi yếu tố tâm lý là yếu tố cốt lõi. Nhiều tác giả còn gọi phát triển là một cấu trúc tâm lý (structure mentale).

Tâm lý của một dân tộc, nhiều người thích dùng cụm từ hồn tính dân tộc, một phần do điều kiện thiên nhiên tạo thành, nhưng một phần lớn là do các giá trị đã được nhìn nhận từ lâu đời và đã tạo ra một nếp sống. Các giá trị ấy hình thành có khi do sự khám phá trong cuộc sống của dân tộc, có khi được du nhập và hấp thụ, được kiểm chứng và xét lại theo kinh nghiệm lịch sử. Lịch sử vì thế đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành tâm lý dân tộc. Lịch sử là trí nhớ tập thể của dân tộc, một nguồn tài liệu và gợi ý. Lịch sử cũng là tấm gương đề một dân tộc nhận diện được mình, hiểu mình, biết mình nên làm gì và có thể làm gì. Muốn như thế, lịch sử phải chính xác và cũng phải được phân tích và khai thác một cách sáng suốt và khách quan.

Nhưng một mặt lịch sử của ta không chính xác, và, mặt khác, chúng ta rút ra từ lịch sử những kết luận và những bài học sai lầm.

 

4. Một Dân Tộc Hiếu Học

Người Việt Nam rất hiếu học. Tính hiếu học của người Việt là có thực. Điều này mọi người đều đồng ý và chính tôi cũng có thể kiểm chứng trong những môi trường mà tôi đã sống và những người mà tôi đã biết, ngay cả trong gia đình tôi.

Tại trung học Trần Lục, nơi tôi theo học từ đệ thất (lớp 6 bây giờ) tới đệ Tứ (lớp 9), các học sinh phần lớn là di cư từ ngoài Bắc vào, chính trường Trần Lục cũng là một trường di chuyền từ Phát Diệm vào. Trường do các linh mục Phát Diệm thành lập và mang tên linh mục Trần Lục, còn gọi là cha Sáu, một tu sĩ có đức hạnh và rất tha thiết với văn hoá Việt nam. Ông Trần Lục có làm một tập thơ, mà tôi không nhớ tên, giáo huấn về đạo đức. Ông cũng xây dựng một nhà thờ lớn theo kiến trúc cổ truyền Việt Nam được coi là rất thành công về nghệ thuật. Nhìn trên ảnh, nhà thờ này giống như một ngôi chùa. Tôi vào học trường Trần Lục vì một lý do tình cờ. Anh em tôi sau tiểu học định thi vào trường Chu Văn An, trường mà mẹ tôi vẫn ca tụng là hay và mơ ước chúng tôi sẽ học tại đấy. Nhưng năm đó, bà có ý định mua một căn nhà trong một ngõ hẻm gần Tân Định nên chúng tôi thi vào Trần Lục để đi học cho gần. Về sau tuy việc mua nhà này không thành, chúng tôi vẫn tiếp tục học ở đó. Lúc đó là những năm 1955-1956, các học sinh trừ một hai ngoại lệ, đều rất nghèo, gia đình họ vốn đã không giàu có lại mất hết của cải trong đợt di cư nên càng nghèo. Đã thế, trường Trần Lục lại là một thứ trường tầm gửi, một thứ trường không có trường, phải học nhờ trường tiểu học Đồ Chiểu. Giải pháp tìm ra là học buổi trưa. Trường tiểu học Đồ Chiểu học sớm đi một chút buổi sáng và trễ một chút buổi chiều. Trường Đồ Chiểu tan học buổi sáng, vào lúc 10g30, trường Trần Lục học từ 10g30 đến 14g30, rồi trường Đồ Chiểu lấy lại trường sau đó. Học buổi trưa là cả một cực hình dưới trời nóng gay gắt. Cả thầy lẫn trò đều mệt mỏi, học sinh phần lớn đều không có tiền mua sách, có khi còn thiếu cả tiền mua vở và bút. Một cây bút chì, một quyển vở đều quí báu cả. Hầu hết các gia đình chúng tôi đều ở trong những căn nhà lụp xụp, nhiều nhà không có điện, tối phải thắp sáng bằng đèn dầu, vừa học vừa đập muỗi. Những buổi tập thể dục mặc quần xà lỏn để lộ đùi ra thì thấy đứa nào cũng đầy dấu muỗi chích. Vậy mà cả trường đều học hành chăm chỉ và đều giỏi cả.

Trong khu tôi ở cũng có nhiều học sinh, họ không sáng dạ lắm nhưng học chăm chỉ một cách kỳ lạ, họ học tới khuya, nhiều người uống thuốc Maxiton cho đỡ buồn ngủ. Tờ mờ sáng họ đã thức dậy, học to tiếng để chống buồn ngủ, tiếng họ học đánh thức anh em tôi dậy. Có những anh đã bắt đầu luyện thi tú tài khi tôi mới lên trung học, đến khi tôi đậu xong tú tài họ vẫn rớt dài dài, nhưng vẫn tiếp tục học. Có chí thì nên, khi tôi ở Pháp về, sau 12 năm vắng mặt, phần lớn đậu đã tốt nghiệp đại học làm giáo sư, luật sư, dược sĩ. Điều không may cho họ là trong thời gian 12 năm ấy xã hội miền Nam đã đổi mới, những nghề trí óc không còn vinh hiển nữa và họ không sung túc bao nhiêu sau những cố gắng thật phi thường. Người khá nhất trong bọn họ là một anh thi mãi không đậu tú tài đi làm bánh mì, sau trở thành chủ. Những lần đi ăn nhậu với nhau anh ta đều trả tiền.

Tôi học xong đệ tứ thì bỏ trường Trần Lục đi làm ban ngày, buổi tối theo học lớp Khuyến Học Bổ Túc của Hội Bình Dân Giáo Dục và lại gặp một loại người khác. Họ là công chức, quân nhân, muốn lấy thêm một mảnh bằng để thăng tiến, là những người đã đi làm, và phần lớn đã có gia đình, muốn có thêm học vấn, hay những học sinh nghèo ban ngày phải đi làm kiếm tiến. Ở hàng đầu là các cô phần lớn đã đi làm, có người đã có chồng con. Trong một lớp bên cạnh có ông Cao Văn Viên, sau này là đại tướng tổng tham mưu trưởng Quân Lực Việt nam Cộng Hòa. Họ học say mê, miệt mài mặc dầu học rất khó khăn.

Lớp học của tôi sau này có nhiều người khá thành công. Trương Văn Vân sau học khoa học rồi tình nguyện đi sĩ quan Đà Lạt, làm tiểu đoàn phó binh chủng Dù, vợ Vân là Thúy, do tôi giới thiệu làm dược sư, con một thương gia giàu có, học trò cũ của tôi lúc tôi đi dạy kèm để kiếm tiền. Vân đi học tập cải tạo 12 năm sau ngày 30-4-1975. Vân và Thúy hiện định cư ở Seattle, Hoa Kỳ. Nguyễn Thiện Tường sau làm luật sư. Tường thi rớt tú tài 1, tôi phải dành cả mùa hè năm đó để kèm Tường. Chúng tôi hẹn nhau ở mái hiên sau của Thư Viện Quốc Gia, bên cạnh trường Petrus Ký và Chu Văn An, nơi có một số bàn ghế vứt bỏ. Tôi đem theo tiểu thuyết để đọc, Tường ngồi học bên cạnh, có gì bí thì hỏi tôi. Anh của Tường là Nguyễn Thiệu Hùng cũng là một gương hiếu học. Anh đậu tú tài trước chúng tôi, vừa đi dạy trung học vừa học văn khoa. Không những thế, anh còn làm thơ và làm thơ hay. […]

Một hôm đi ăn tiệm ở Paris, ông chủ nhận ra tôi, rồi tự giới thiệu là Nguyễn Văn Ngọ, học lớp bên cạnh, cùng với ông Cao Văn Viên. Ông ta sau này cũng đậu cử nhân luật, làm tham vụ ngoại giao và ở nước ngoài nên thoát nạn ngày 30-4-1975. Chính ông Viên, sau khi đậu tú tài và làm tướng vẫn tiếp tục học và đậu cử nhân văn chương.

Mỗi lần hồi tưởng lại thời gian ấy, tôi vẫn cảm thấy một sự cảm phục sâu xa và một niềm hãnh diện vô cùng về tính hiếu học của người Việt. Tôi còn nhớ mãi đôi mắt quầng thâm của chị bạn ngồi bàn trên tôi. Có lẽ chị đã thức đêm nhiều lắm để học. Tôi vẫn tin tính hiếu học là hy vọng lớn nhất của dân tộc ta để vươn lên.

 

5. Hai Bằng Tiến Sĩ

Vào năm 1956, ông Hoàng Văn Chí vượt tuyến vào Nam và cho xuất bản cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc cùng với nhiều tài liệu khác mà ông đem vào. Ông đã gây được một sôi nổi lớn tại miền Nam. Chính phủ Ngô Đình Diệm khai thác triệt để các tài liệu này vì lúc đó đang phát động chiến dịch tố cộng. Các tài liệu được phổ biến rộng rãi. Tài liệu được đặc biệt chú ý là bản tham luận của luật sư Nguyễn Mạnh Tường, từ đó tôi đã được đọc rất nhiều bài nói về ông. Điều làm tôi chú ý là tất cả mọi bài đều ca tụng ông Nguyễn Mạnh Tường đã đậu hai bằng tiến sĩ luật khoa và văn khoa khi mới ngoài hai mươi tuổi. Ngoài ra không thấy nói ông Tường đã đạt được một thành tích nào.

Vài năm trước khi qua đời, ông Nguyễn Mạnh Tường có dịp đi Pháp và báo chí hải ngoại lại đề cập đến ông như là một trí thức đã bị cộng sản lừa gạt và ngược đãi. Trong tất cả những bài viết về ông Tường đều có nhắc lại việc ông đậu hai bằng tiến sĩ, thêm vào đó là việc ông đã tỏ ra có khí phách khi viết bài tham luận tố giác những tội ác của vụ cải cách điền địa. Ngoài ra cũng không có gì khác.

Hồi tháng 5-1994, tôi có viết một bài tham luận về trí thức Việt Nam đăng trên báo Ngày Nay, xuất bản ở Houston, Hoa Kỳ. Bài này là một bài tham luận về văn hóa và tư tưởng. Những điều tôi viết đã không làm hài lòng một số trí thức và đã có một số bài phản ứng. Ông Phạm Nam Sách có viết một bài góp ý trên tờ Thời Luận, xuất bản tại Los Angeles, Hoa Kỳ. Bài của ông Sách lại đưa đến một bài báo khác ký tên Công Tôn Hoàng, chắc chỉ là một bút hiệu, đả kích cả ông Sách lẫn tôi. Tác giả cho biết chỉ đọc bài của ông Sách chứ không đọc bài của tôi. Tôi bị đả kích thật nặng lời hơn cả ông Sách, mặc dù những điều tác giả đả kích thực ra là do ông Sách viết chứ không phải tôi. Nhưng điều đó không quan trọng lắm. Điều đáng để ý là cả hai bài này đều đề cập đến ông Nguyễn Mạnh Tường, và một lần nữa nhắc lại việc ông Tường đậu hai bằng tiến sĩ.

Trong tất cả bài viết về ông Tường mà tôi đã được đọc cho đến nay không có bài nào không nói đến hai bằng tiến sĩ của ông. Ngoài ra không có gì đặc biệt. Hình như việc ông đậu hai bằng tiến sĩ là quan trọng nhất trong cuộc đời ông dưới mắt nhiều người. Sự kiện đó được coi là đủ để kết luận ông là người giỏi và những điều ông nói là cao siêu.

Tôi có dịp gặp ông Tường tại Paris tại nhà một người bạn. Buổi nói chuyện kéo dài khá lâu và tôi thú thực không thấy gì đặc sắc. Ông nói nhiều điều đúng, không có gì để phản đối cả, nhưng đều là những điều rất thông thường.

Tôi cũng có đọc nhiều bài nói về ông Trần Đức Thảo, và tất cả mọi bài đều nói đến việc ông đậu thạc sĩ triết học. Có một số bài còn nói đến việc ông từng tranh luận với Jean-Paul Sarlre, nhưng các tác giả đều không biết ông tranh luận về cái gì và đưa ý kiến gì. Tác giả nào hình như cũng ngưỡng mộ ông về mảnh bằng thạc sĩ của ông, việc tranh luận với Sartre chỉ được nêu ra để minh họa thêm trình độ cao của ông mà thôi. Tôi chỉ đọc được một bài của ông Hoàng Khoa Khôi, một người thợ tự học và một người cách mạng mà tôi rất quý mến, tranh luận một cách không nhân nhượng với ông Thảo và tỏ ra không hề mặc cảm về cái bằng thạc sĩ của ông. Ông Thảo hình như làm luận án về hiện tượng luận, nhưng triết học trừu tượng không phải sở thích của tôi, nên tôi không đọc tác phẩm nào của ông cả. Tôi chỉ đọc một tập sách ngắn – đúng ra phải gọi là một bài dài – của ông nhan để Un itinéraire (Một lộ trình), trong đó ông tóm lược diễn tiến tư tưởng của ông. Thú thực tôi thấy nó rất xoàng, phải nói thẳng là quá xoàng. Tuy nhiên đối với rất nhiều người, việc ông đậu bằng thạc sĩ là đã đủ để bảo đảm giá trị của những gì ông viết.

Tháng 7 năm 1990, tôi đi dự đám tang của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy, một người mà tôi rất quí mến, tôi cũng được nghe một bài điếu văn liệt kê tất cả những bằng cấp của ông một cách rất trân trọng, mặc dầu cuộc đời đấu tranh phong phú của Nguyễn Ngọc Huy có rất nhiều điều đáng nói hơn.

Hình như đối với người Việt, bằng cấp là quan trọng nhất, và một con người trước hết được đánh giá qua những bằng cấp mà mình có. Bằng quí như thế nên tôi đã từng thấy những người chơi bằng. Họ có đủ mọi loại bằng cấp, mặc dầu chỉ làm được có một nghề. Có những người ngoài bốn mươi tuổi vẫn còn cố đi học để lấy thêm một bằng cấp khác, không biết để làm gì. Những thì giờ đó nếu họ dùng để học hỏi mở mang kiến thức thực sự, hay để sống với vợ con, hay ngồi nghỉ ngơi và suy tư thì hay biết mấy.

Trong sinh hoạt nghề nghiệp, tôi có dịp phỏng vấn nhiều người Việt Nam để tuyền dụng. Hồ sơ ứng tuyển của họ lọt dễ dàng vòng sơ khảo của sở nhân viên để đến tay tôi vì họ có bằng cấp rất khá. Dần dần kinh nghiệm cho tôi một nhận định rất rõ ràng: người Việt thường có bằng cấp quá cao so với giá trị của họ. Không những thế, thường thường họ hiểu biết rất ít về những gì họ đã làm.

Trong ngành tin học ứng dụng vào quản trị, hoạt động chính của tôi trong những năm gần đây, các kỹ sư Việt Nam thường chỉ biết tin học và mù tịt về quản trị. Trong khi tin học chỉ là phương tiện, quản trị mới là mục đích. Đã thế họ còn diễn đạt một cách rất khó hiểu. Điều trớ trêu là phần lớn cũng biết như vậy nhưng đã giải quyết một cách khác: trong CV (lý lịch) của họ, ngoài bằng kỹ sư tin học, có khi còn có thêm bằng tốt nghiệp một trường quản trị. Họ tin rằng với một bằng về tin học và một bằng về quản trị dĩ nhiên mình phải được coi là giỏi cả về tin học lẫn quản trị. Có bằng là có tài và chúng ta yên trí.

Trong giao dịch nghề nghiệp, tôi có dịp tiếp xúc với đủ loại người và khám phá nơi người Việt mình một đặc tính: họ có thể bị lừa bởi bằng cấp của chính họ. Một khi đã có bằng cấp về một môn nào đó, họ tin chắc là họ giỏi về môn đó, mặc dầu trên thực tế họ chỉ biết rất lơ mơ. Sự đánh giá bằng cấp của người Việt thật là kỳ lạ đối với người Pháp mà tôi biết khá rõ, bằng cấp là chứng nhận một trình độ hiểu biết, bằng cấp nói lên khoảng một phần ba những gì họ biết, đối với người Việt Nam nó là ba lần những gì họ biết.

Người Việt Nam mình đánh giá người khác qua bằng cấp và sau cùng cũng tự đánh giá mình qua bằng cấp. Bằng cấp đối với người Việt vì vậy có một tầm quan trọng rất đặc biệt. Có thể nói người Việt Nam đi học để lấy bằng cấp chứ không phải để lấy kiến thức. Bằng cấp không những là phương tiện để lừa người khác mà còn là phương tiện để đánh lừa chính mình. Tôi đã ca tụng tính hiếu học của người Việt trong những trang trước. Ở đây, tôi phải đánh một dấu giáng trên niềm tin đó. Hiếu học là hay, nhưng học để làm gì còn quan trọng hơn. Khổ thay phải nhìn nhận rằng nguyên nhân tính hiếu học của người Việt không lấy gì làm trong sáng lắm.

Nếu bằng cấp là hãnh diện cho kẻ có thì nó cũng là một tủi hổ cho người không có. Một anh lúc ở Việt Nam là một tư chức nhỏ, trình độ học vấn của anh ta cỡ vào khoảng giữa bậc trung học. Anh ta mơ mảnh bằng tiến sĩ, điều đó quan trọng vô cùng đối với anh, đến nỗi anh vật vã trong hơn mười lăm năm miệt mài, ban ngày đi làm lặt vặt kiếm sống, tối học đi thi lấy bằng tiến sĩ. Anh ta ghi danh vào một trường đại học không đòi hỏi bằng tú tài và cho làm luận án tiến sĩ mà không đòi hỏi bằng cao học, nghĩa là một thứ tiến sĩ đại hạ giá. Sau khi đã có bằng tiến sĩ, tôi không thấy anh ta khá hơn trước. Nhưng sự kiện có bằng tiến sĩ khiến anh ta trở nên thoải mái, tự tin, trông mặt anh ta sáng hẳn lên. Ít ra mảnh bằng đã cho anh ta hạnh phúc.

Phải giải thích thế nào óc trọng bằng cấp và ham bằng cấp của người Việt? Nó là biểu hiện của một dân tộc thiếu óc làm chủ, một dân tộc có bản năng làm công và làm mướn. Nếu không có ý định đi xin việc làm mà nhất quyết xây dựng một cơ sở của riêng mình chắc chắn người ta không cần bằng cấp, mà chỉ cần kiến thức.

Những người Trung Hoa ở Chợ Lớn không cần bằng cấp vì họ không có ý định xin việc làm, họ làm cho chính họ. Và họ thành công hơn người Việt, và cũng giỏi hơn người Việt. Thời gian làm việc tại miền Nam trước 1975, đã cho tôi nhiều cơ hội để tiếp xúc và tìm hiểu họ. Trái với dư luận thông thường, họ không phải là những nhà triệu phú vô học, viết chữ còn run tay. Họ là những con người xuất chúng, có kiến thức rất sâu và rất rộng, có lý luận rất sắc bén và có cách trình bày rất minh bạch. Chắc chắn họ đã học hỏi rất nhiều. Có điều là họ học cho giỏi chứ không học để lấy bằng.

 

6. Một Dân Tộc Bất Khuất và Tự Hào?

“…Ôi đẹp biết bao, biết mấy tự hào
Sài Gòn ơi ta vẫy tay chào
cờ sao đang tung bay cao…”

Xuân Hồng
(trích bài Mùa Xuân Trên Thành Phố Hồ Chí Minh)

Các nhà bình luận chính trị và lịch sử của ta dù là cộng sản hay không cộng sản đều đồng ý rằng dân tộc ta rất bất khuất và giàu tự ái dân tộc. Các thế hệ Việt Nam lớn lên đều được huấn luyện để tin như vậy và tự hào về tính tự hào dân tộc của ta. Đó là một niềm tin cần thiết, và cũng có căn bản, nhưng tính bất khuất và lòng tự hào dân tộc có được thể hiện một cách thường trực hay không lại là cả một vấn đề.

Trong cuốn Mặt Thật, Bùi Tín, một cựu đại tá phó tổng biên tập báo Nhân Dân đã ly khai với đảng cộng sản, viết về quan hệ giữa các cấp lãnh đạo đảng cộng sản và các cố vấn Trung Quốc sang Việt Nam hướng dẫn họ làm cải cách điền địa năm 1955 như sau:

[…] Mỗi lần các vị học trò này gặp đoàn phái viên quý báu của Mao chủ tịch, về Thủ ti cải cờ (Thổ địa cải cách, theo tiếng Bắc Kinh), họ chỉ có thái độ tiếp nhận ý kiến của chuyên gia, không dám hỏi lại, cũng không dám cãi lại. Anh bạn của tôi làm ở văn phòng ban Chỉ đạo hồi ấy (năm 1954, 1956) kể lại: Triết cố vấn, Triệu cố vấn và Vương cố vấn chuyên ngồi dựa vào ghế bành lớn, ưõn bụng ra phía trước, có lúc gác đại cả hai chân lên bàn, tay cầm ly rượu mao đài, nhổ nước bọt ồn ào xuống đất, để phán bảo cho những người nắm vận mệnh của đất nước Việt Nam. Thật thê thảm cho đất nước này! […]

Những người nắm vận mệnh của đất nước Việt Nam mà Bùi Tín nói tới là các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc việt, Hồ Viết Thắng, v.v… những lãnh tụ cộng sản nổi tiếng sắt đá và độc đoán. Họ không coi ý kiến của người Việt Nam ra gì cả, đến ngay sinh mệnh của người Việt Nam cũng không có một tầm quan trọng nào dưới mắt họ. Họ tàn sát thẳng tay những người không đồng ý với chủ nghĩa cộng sản. Những ai đọc những sách báo của đảng cộng sản ngày trước, và cho tới gần đây, khó có thể không ngượng vì những lời tâng bốc không một chút dè dặt đối với Trung Quốc đàn anh, Liên Xô vĩ đại, Lênin vĩ đại, Stalin vĩ đại, Mao chủ tịch vĩ đại. Họ xưng hô với khách ngoại quốc bằng Ngài, một tiếng mà họ không bao giờ dùng đối với người Việt. Sự kính nể người ngoại quốc không phải chỉ được thể hiện với các nước xã hội chủ nghĩa anh em mà ngay cả với các nước tư bản thù địch.

Trong hội đàm Paris (1968-1973), họ nhất định đòi nói chuyện với Mỹ chứ không thèm nói chuyện với phía Việt Nam Cộng Hòa. Có người nói đó là một thái độ chính trị cần có để tự xác nhận như là đại diện cho toàn dân Việt Nam và phủ nhận mọi tư cách của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng kết quả của cuộc thương thuyết có bao giờ tuỳ thuộc ở thái độ này hay thái độ nọ đâu, nó luôn luôn chỉ tùy thuộc vào yếu tố duy nhất là tương quan lực lượng. Chọn lựa chiến lược của Mỹ đã như thế và tương quan lực lượng đã như thế thì dù Hà Nội có khinh miệt hay kính trọng chính quyền Sài Gòn, kết quả của cuộc thương thuyết vẫn như thế. Thái độ khinh miệt phe quốc gia của Hà Nội chẳng có ảnh hưởng cụ thể nào lên cuộc thương thuyết cả, nó chỉ nói lên một tâm lý tôn kính người ngoại quốc và coi thường đồng bào của mình. Nếu thực sự có tự ái dân tộc, họ đã phải tìm kiếm một giải pháp giữa người Việt Nam với nhau. Nhưng tâm lý của họ là tâm lý trọng ngoại.

Cái tâm lý trọng người ngoài khinh người nhà được thể hiện một cách ô nhục qua vụ xử án những người trong “Mặt Trận Thống Nhất Các Lực Lượng Yêu Nước Giải Phóng Miền Nam Việt Nam” của Lê Quốc Túy cuối năm 1984. Năm người bị kết án tử hình là Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Hồ Thái Bạch và Huỳnh Vĩnh Sanh. Dù chẳng có cảm tình gì với Mặt Trận này nhưng lúc đó tôi cũng tham gia tranh đấu để các bị cáo được xét xử một cách đứng đắn. Đó chỉ là một thái độ bảo vệ công lý, thái độ này cũng được kích thích bởi tình bạn với Trần Văn Bá mà tôi quen thân từ hồi còn hoạt động với nhau trong Tổng Hội Sinh Viên Việt Nam tại Paris. Giáo sư Nguyễn Ngọc Huy cũng tham gia đắc lực cuộc vận động này với chúng tôi.

Một sự kiện ngộ nghĩnh là một hôm tôi nhận được một thư của Tòa Đại Sứ Hà Nội tại Paris. Thư gồm một phiếu gởi có en-tête và con dấu của tòa đại sứ, kèm với một cáo trạng đối với các can phạm. Theo cáo trạng này thì Mai Văn Hạnh là người chủ chốt nguy hiểm nhất, Trần Văn Bá là một người nông nỗi nhiều anh hùng tính, Lê Quốc Quân là một người hoạt động đắc lực, hai người kia là tòng phạm.

Trong buổi họp tối hôm đó, tôi đưa văn thư này cho Nguyễn Ngọc Huy xem, Nguyễn Ngọc Huy nói: “Mai Văn Hạnh có thẻ thông hành Pháp, Huỳnh Vĩnh Sanh hồi trước đã có sắc lệnh nhập tịch Pháp dù không tới lấy thông hành, hai người này có thể thoát chết, nhưng ba người kia thì nguy”.

Quả đúng vậy, Mai Văn Hạnh, người được coi là chủ chốt nguy hiểm, và Huỳnh Vĩnh Sanh được ân xá, còn ba người kia – Bá, Quân và Bạch – bị đem xử bắn ngay một tuần sau đó. Hai năm sau, Mai Văn Hạnh được trả tự do cho đi Pháp. Tội nặng hơn nhưng nhờ có quốc tịch Pháp thì thoát, tội nhẹ hơn nhưng mang quốc tịch Việt Nam thì bị bắn. Thực là một quan niệm kỳ cục về người Việt. Tự hào dân tộc ở đâu?

Lúc còn ở Sài Gòn, năm 1981, một hôm tôi gặp một anh chuyên gia Việt kiều mà tôi quen biết từ lâu. Anh ta du học tại Pháp, học rất kém, lận đận mãi rồi bỏ qua Canada. Tôi biết quá rõ anh ta để có thể bảo đảm là anh ta không có khả năng nào đáng kể. Nhưng anh ta có xe đưa đón trọng vọng và được rất nhiều quan chức cao cấp tham khảo. Trong khi đó những kỹ sư giỏi gấp nhiều lần anh ta, tốt nghiệp từ Mỹ, từ Pháp, từ Úc, lừ Canada không thiếu gì, nhưng được xếp cho ngồi đánh cờ trong các cơ quan. Họ chỉ được tuyển dụng để nhà nước kiểm soát chứ không được sử dụng. Không ai cần biết ý kiến của họ. Óc khinh thường người Việt Nam mạnh đến nỗi ngay cả những người tốt nghiệp ở nước ngoài mà phần nào đã được Việt Nam hóa cũng bị coi thường. Nếu nói là vì chúng tôi là “ngụy quân ngụy quyền cũ” nên không được trọng vọng như những “trí thức Việt kiều yêu nước”, thì cũng không đúng, bởi vì các kỹ sư có thẻ đảng hẳn hoi, tốt nghiệp từ Liên Xô, Đông Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan… cũng khá đông và nhiều người rất giỏi nhưng cũng chẳng được ưu đãi hơn chúng tôi bao nhiêu. Cũng có cả những chuyên viên tốt nghiệp từ Mỹ và Tây Âu tự nguyện về nước vì nhiệt tình với chế độ nhưng cũng không được trọng vọng như anh chuyên viên Việt kiều kia, bởi vì họ được coi là Việt nam.

Người cộng sản không có độc quyền về đặc tính thiếu tự hào dân tộc. Tôi đã ở trong lòng chế độ Việt Nam Cộng Hòa để có thể xác nhận cái tính trọng ngoại khinh nội của chế độ. Tốt nghiệp ở nước ngoài là cái chìa khóa mở hầu hết các cửa, tốt nghiệp ở trong nước là cả một trở ngại lớn cho sự thăng tiến. Có phải là vì ở nước ngoài được huấn luyện kỹ hơn chăng? Lý cớ hơn là lý do. Ở các Bộ Kinh Tế, Tài Chánh, sự nể vì người ngoại quốc nặng đến nỗi các tổng giám đốc các công ty nước ngoài không bao giờ thèm biết tên các giám đốc Việt nam, có chuyện gì họ gõ cửa thẳng các ông bộ trưởng và họ luôn luôn được tiếp đón niềm nở. Một tổng giám đốc công ty Pháp tại Sài Gòn cho tôi hay là ông ta bắt buộc phải tuyển dụng các cấp giám đốc, phó giám đốc người Pháp chính cống từ Pháp qua dù đắt gấp bốn năm lần một người Việt Nam tài giỏi hơn bởi vì một người Pháp chính cống dễ nói chuyện với chính quyền Việt Nam hơn là một người Việt Nam. Ông ta nói với tôi như vậy giữa bữa ăn và tôi muốn độn thổ vì xấu hổ.

Sự khinh thường người Việt không phải chỉ có nơi những người cầm quyền mà còn có trong quần chúng Việt Nam. Mới đây cháu tôi tốt nghiệp ở Hòa Lan xin đi làm cho một hãng Hòa Lan có chi nhánh ở Việt Nam và bị từ chối. Ban giám đốc giải thích rằng họ không tuyền dụng cấp chỉ huy người Việt cho chi nhánh tại Việt Nam vì lý do một người Hòa Lan da trắng mắt xanh dễ điều khiển người Việt hơn một người Hòa Lan gốc Việt. Người Hòa Lan học bài nhanh thật!

Tôi quen biết một nhà bình luận thời cuộc viết nhiều bài về Việt Nam và khá nổi tiếng. Anh ta vẫn thường hỏi ý kiến tôi mỗi khi viết bài, và bù lại cũng giúp tôi một số việc. Bài của anh hay được các báo Việt Nam đăng lại và được ca tụng như là rất đúng, rất thâm thúy, ngay cả bởi những tờ báo đả kích tôi một cách nặng nề, mặc dù những điều anh ta viết không khác gì những điều tôi viết vì một lý do giản dị: phần lớn những ý kiến của anh ta là ý kiến của tôi. Những người ca tụng anh ta và đả kích tôi không biết rằng chúng tôi quen nhau. Tôi cũng không dám nói cho anh ta biết là những người ấy chống tôi. Vì ngượng, vì tự hào dân tộc.

Xem lại phim thời sự trong những ngày cuối tháng 4-1975, có một cảnh làm tôi thực sự đau lòng. Một đại tá quân đội Việt Nam Cộng Hòa đến phút chót vẫn còn hiên ngang trấn giữ cửa vào Sài Gòn. Tôi thán phục sự dũng cảm của ông, nhưng ông lại nói một cách hãnh diện trước ống kính của đài truyền hình Pháp: “Tôi không sợ bởi vì tôi đã từng là trung sĩ trong quân đội Pháp”. Làm đại tá quân đội Việt Nam nhưng lại hãnh diện vì đã là trung sĩ quân đội Pháp!

Tôi còn có thể kể vô số những trường hợp khác mà tôi đã thấy và đã biết. Có phải vì chúng ta quá đinh ninh mình là một dân tộc bất khuất và giàu tự hào dân tộc rồi không thấy cần nuôi dưỡng tự hào dân tộc thực sự, hay vì trong thâm tâm mỗi người chúng ta không đánh giá cao chính mình, cho nên chúng ta coi thường những người giống mình?

Khi người ta có thể khinh bỉ, mạt sát và buộc tội một cách thậm tệ một người mà mình chỉ biết qua một số dư luận thôi thì phải chăng là người ta đang mạt sát chính mình? Điều người ta thực sự nói qua sự hung hăng vô căn cứ đó là: “Tao không cần biết mày là ai, đã thực sự nói và làm những gì, nhưng tao vẫn có thể mạt sát mày mà không sợ sai lầm, vì mày cũng là người Việt như tao, mà đã như tao thì mày chỉ có thể là lưu manh xằng bậy thôi”. Một người có niềm tự hào thực sự bao giờ cũng quí trọng những người giống mình.

Nhưng thực tế là chúng ta thiếu một cách tuyệt vọng tự hào dân tộc. Chúng ta cần khẩn cấp nghĩ lại mình. Một lòng tự hào dân tộc thực sự có thể thay đổi con người chúng ta và đất nước chúng ta. Chúng ta sẽ kính trọng lẫn nhau và ngồi lại với nhau để giải quyết những bất đồng thay vì khinh miệt lẫn nhau và chỉ tìm giải quyết với người ngoại quốc, hay cầu cạnh người ngoại quốc giải quyết giùm mình những vấn đề của mình.

Mà sự thực người Việt Nam có thiếu anh tài đâu. Nguyễn Trãi đã từng viết: “Nước Việt Nam ta là một nước văn hiến… dù có lúc mạnh lúc yếu nhưng không thời nào thiếu hào kiệt”.

 

7. Anh Hùng Nước Nam

Hồi còn ở tiểu học, tôi có làm một bài luận với đầu đề: “Trong những anh hùng nước Nam, em thích vị nào nhất? Hãy nói tại sao?”. Bài luận này rất phổ thông, hình như người nào học tiểu học chương trình Việt cũng đã gặp. Chỉ sau khi đảng cộng sản nắm chính quyền, câu hỏi mới không đặt ra nữa, vì lúc đó người anh hùng vĩ đại nhất từ xưa đến nay của Việt Nam dĩ nhiên bắt buộc phải là chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tôi chọn vua Quang Trung, tức Nguyễn Huệ. Lý do là vì ông ấy giỏi võ và đánh thắng năm mươi vạn quân Thanh tại trận Đống Đa. Trong lớp tôi có tới gần một nửa cũng chọn Nguyễn Huệ. Phần còn lại chọn Trần Hưng Đạo, Đinh Tiên Hoàng, một vài đứa chọn Ngô Quyền, Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Lê Lai, Trần Quốc Toản, Lý Thường Kiệt.

Sau khi du học Pháp về tôi hỏi một số giáo viên tiểu học về bài luận. Họ cho biết năm nào cũng ra đề tài này và Nguyễn Huệ luôn luôn về nhất khá xa, kế tiếp là Trần Hưng Đạo, Đinh Tiên Hoàng. Thỉnh thoảng có Nguyễn Trãi, Ngô Quyền, Trần Bình Trọng, Nguyễn Công Trứ.

Nói chung ba ngôi vị đầu vẫn thế, ở đoạn cuối bảng danh dự đã bắt đầu xuất hiện những nhân vật mới có thành tích về văn hóa. Nhưng mẫu số chung giữa các vị anh hùng này vẫn không đổi: tất cả đều là võ tướng. Nguyễn Trãi tuy xuất thân là nho sinh nhưng đã cầm quân đi đánh giặc và làm quân sư (ở đây xin chú thích chữ “quân sư” thường được hiểu trong ngôn ngữ dân gian là người bày mưu kế nhưng thực ra nó có nghĩa là tư lệnh, các quân sư được ra lệnh cho các tướng). Nguyễn Công Trứ tuy có sự nghiệp văn chương lớn, nhưng cũng là võ tướng, cầm quân đánh dẹp khắp nơi, từng là Bình Tây Đại Tướng, ông được coi là người văn võ kiêm toàn.

Tuyệt đối không thấy Nguyễn Du, Lê Quí Đôn, Chu Văn An, Ngô Sĩ Liên, Lê Văn Hưu, Phan Huy Chú. Như thế anh hùng của Việt Nam bắt buộc phải là võ tướng, và hơn thế nữa phải thắng trận. Trần Bình Trọng, Lê Lai là những võ tướng được tôn vinh vì lòng can đảm, nhưng dần dần lọt sổ. Trường hợp Nguyễn Trãi có điều đáng nói. Ông giúp Lê Lợi, cầm quân đánh giặc giành lại được độc lập cho nước ta, nhưng gặp nạn ở cuối đời, bị tru di tam tộc, về sau mới được Lê Thánh Tông phục hồi danh dự. Sự oan nghiệt đó có lẽ đã không khiến ông xuất hiện một cách lộng lẫy dưới con mắt của trẻ thơ.

Trẻ thơ là tấm gương soi tâm hồn của một dân tộc. Từ những bài luận của học sinh tiểu học, phải suy ra rằng người Việt Nam có tâm lý tôn thờ bạo lực rất mạnh. Bạo lực càng nhiều, công đức càng cao.

Nguyền Huệ xuất thân là tướng cướp, nhờ liên hệ với quân Thượng và quân gốc Chiêm Thành và đám cướp biển người Tàu mà mạnh dần lên, rồi nhờ tài dùng binh mà lên làm vua. Ông là người đặc biệt hung tợn và hiếu sát. Sự nghiệp của ông là những trận đánh khốc liệt trong đó người Việt Nam tàn sát lẫn nhau; chỉ có hai ngoại lệ là một trận đánh thắng quân Xiêm và một trận Đống Đa, trong đó ông phá tan quân Thanh. Trong một bài sau tôi sẽ trở lại với nhân vật Nguyễn Huệ và trận Đống Đa. Ở đây tôi chỉ xin đưa một nhận định tạm thời. Nếu nhìn một cách bình tĩnh thì công lao của Nguyễn Huệ thực ra không thấm tháp gì so với những tàn phá và chết chóc mà ông đã gây ra cho đất nước. Việc ông được tôn sùng quá đáng tố giác một tâm lý kính sợ bạo lực của người Việt Nam; việc người ta tô vẽ cho ông nhưng đức tính mà ông hoàn toàn không có như giỏi trị nước an dân, có lòng nhân ái, v. v… chứng tỏ rằng ta tôn sùng bạo lực tới độ ta sẵn sàng làm đẹp nó.

Hình như ta còn cho rằng chỉ có những chiến công mới là đáng kể, những gì đạt được phải đạt bằng bạo lực mới là hay. Chu Văn An đã viết ra nhiều sách, Lê Quí Đôn có công làm ra bộ tự điển bách khoa đầu tiên, Lê Văn Hưu mở đầu cho khoa sử ở nước ta, Ngô Sĩ Liên là người đầu tiên biết nhận định lịch sử một cách chính xác, có thể coi như nhà lý luận chính trị đầu tiên của nước ta, Phan Huy Chú là tác giả công trình biên khảo lớn nhất. Tuy vậy, tất cả đều không phải là những anh hùng dân tộc. Nguyễn Du chỉ được biết tới như một nhà thơ lớn.

Không những người cộng sản, mà cả nhưng người chống cộng, đều nghĩ rằng thành tích to lớn nhất và cũng là nền tảng của sự chính đáng của đảng cộng sản là đã đánh Pháp, đánh Mỹ, đánh phe quốc gia. Nhưng nếu không đánh thì sao? Nếu biết vận dụng trí tuệ để tranh đấu bất bạo động chắc chắn chúng ta cũng đã được độc lập và thống nhất không muộn hơn, mà lại không phải trải qua những đỗ vỡ trầm trọng. Ta tôn thờ bạo lực ngay cả khi bạo lực có hại.

Người cộng sản không có độc quyền tôn thờ bạo lực. Việt Nam Quốc Dân Đảng dù không có một hy vọng mảy may nào thắng được người Pháp bằng bạo lực vẫn chủ trương dùng con đường bạo lực ngay từ đầu. Quyết định khởi nghĩa năm 1930 chỉ là một quyết định tự sát.

Sự hấp dẫn của bạo lực đối với chúng ta quá mạnh. Mạnh đến nỗi ta không những chấp nhận mà còn mơ ước bạo lực. Khi không có bạo lực, ta phải cố bịa đặt để tưởng tượng rằng mình có bạo lực.

Các tổ chức chống cộng hải ngoại trước đây đều đồng thanh chủ trương phải giải phóng quê hương bằng bạo lực, dù hoàn toàn không có phương tiện của bạo lực.

Ông Võ Đại Tôn có lực lượng gì đâu, ông chỉ cùng với hai ba người qua biên giới Lào chụp ảnh để gây ấn tượng trong cộng đồng người tị nạn. Ông Hoàng Cơ Minh lập một doanh trại ở Thái Lan rồi bảo đó là chiến khu quốc nội.

Trách họ là bịp bợm có thể đúng nhưng quả là quá dễ và, theo tôi, không công bình. Họ phải làm như thế để tranh thủ sự ủng hộ. Giả thử nếu ông Võ Đại Tôn không tạo cái ảo tưởng là có bạo lực thì ông cũng không khác nhiều người hoạt động khác. Nếu ông Hoàng Cơ Minh không lập “chiến khu” thì liệu ông có được sự ủng hộ mạnh mẽ đến thế không?

Sự thực ra cũng không thể trách họ là bịp bợm. Tôi sang Pháp lúc ông Hoàng Cơ Minh đang nổi như cồn. Tôi đã nói chuyện với rất nhiều người, và không ai, kể cả những người ủng hộ ông, tin là ông có chiến khu thực sự đâu. Vậy làm sao có thể nói là đã bị lừa gạt? Nói như vậy là không thành thực. Sở dĩ người ta ủng hộ ông là vì ông đã có công tạo ra một ảo tưởng bạo lực, và ảo tưởng đó là giấc mơ của đa số người tị nạn thời đó. Họ đóng góp cho ông Hoàng Cơ Minh vì ông cho phép họ nuôi dưỡng giấc mơ đó. Họ đóng góp cho ông để ông diễn tuồng kháng chiến võ trang cho họ xem.

Ông Võ Đại Tôn đã phải trải qua mười năm tù tội. Ông Hoàng Cơ Minh đã thiệt mạng. Nhiều người khác đang mòn mỏi trong các nhà tù. Họ là những nạn nhân đáng thương của tâm lý tôn sùng bạo lực của người Việt nam.

Tôi không bao giờ tán thành bạo lực, và hoàn toàn không tán thành đường lối đấu tranh của họ. Nhưng đối với họ tôi luôn luôn có một tình cảm bùi ngùi, thương xót. Điều đáng trách là tâm lý tôn sùng bạo lực của con người Việt Nam.

Nhóm TL đã bị phản đối dữ dội vì chủ trương từ bỏ bạo lực, và do đó đụng chạm tới một sự sùng ái lâu đời.

Một dân tộc không nhiều thì ít cũng xứng đáng với số phận của mình. Sở dĩ ngày hôm nay đất nước chúng ta kiệt quệ như thế này cũng vì cái tâm lý tôn sùng bạo lực ấy. Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm. Chúng ta tôn sùng bạo lực và ngạc nhiên thấy mình là nạn nhân của bạo lực.

 

8. Tiếng Mẹ Ru Từ Lúc Nằm Nôi

“Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!
Mẹ hiền ru những câu xa vời.
Tiếng nước tôi, tiếng mẹ ru từ lúc nằm nôi…”

Phạm Duy (Tình ca)

Một lý do quan trọng khác khiến chúng ta kém về truyền thông là chúng ta khinh thường tiếng Việt. Mà đã khinh thường tiếng mẹ đẻ thì hậu quả tất nhiên là kém về truyền thông, vì tiếng mẹ đẻ dù thế nào đi nữa cũng vẫn là ngôn ngữ mà một con người có thể sử dụng hay nhất. Nó là những tiếng đầu đời đã nhào nặn ra ý niệm, tình cảm, tâm hồn của con người. Một người dù có học và sử dụng một ngoại ngữ nhiều thế nào đi nữa vẫn không thể diễn tả tư tưởng và tình cảm của mình một cách trung thành và tế nhị bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Đó vẫn chỉ là một ngôn ngữ mượn mà thôi. Những người trẻ trưởng thành tại hải ngoại có khả năng truyền thông hơn hẳn cha anh vì được huấn luyện một cách khác, được khuyến khích phát biểu; nhưng cũng vì tiếng Anh, tiếng Pháp được hấp thụ từ mẫu giáo và gần như là tiếng mẹ đẻ của họ. Họ không vướng một tiếng mẹ đẻ đã bị gạt bỏ.

Sự khinh thường tiếng Việt là một truyền thống của người Việt nam. “Nôm na là cha mách qué”, tiếng Việt là tiếng không cao thượng. Những văn bản quan trọng phải viết bằng chữ Nho. Người Việt ta khi cần nói một điều trịnh trọng, trang nhã rất thường hay xổ Nho: “Thưa anh dĩ hòa vi quí, mình chẳng nên đôi co với họ làm gì, biết họ như vậy rồi mình cứ kính nhi viễn chi là hơn”. Không biết bao nhiêu lần rồi tôi đã nghe những câu nói tương tự như vậy, ngay cả tại hải ngoại này, ở cửa miệng hay ở ngòi bút của những người có học thức và sử dụng tiếng Việt một cách nhuần nhuyễn hơn hẳn mức trung bình.

Chắc vì coi tiếng Việt là thứ tiếng tầm thường, thấp kém nên khi viết và nói người ta không cần một thận trọng nào, bất chấp cả văn phạm lẫn chính tả. Trái lại khi phải viết một văn bản bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, người ta đắn đo từng câu, từng chữ, viết đi viết lại nhiều lần, ớm hỏi người này người kia viết như thế có đúng không, có hay không, v. v… Sự yên trí rằng “viết tiếng Việt thì thế nào cũng được” thể hiện ngay cả trong những tài liệu quan trọng. Trong bản cương lĩnh của “Phong Trào Yểm Trợ Dân Chủ và Tái Thiết Việt Nam” của cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu dài khoảng ba trang đánh máy, tôi đếm được gần một trăm lỗi chính tả và văn phạm. Đó là văn kiện căn bản của một nhân vật đã từng cầm vận mệnh của đất nước và có lẽ còn muốn cầm tiếp. Cẩu thả đến thế là cùng. Chung quanh ông Thiệu chắc chắn là có những người biết tiếng Việt nhưng ông Thiệu đã không thấy cần phải hỏi ý kiến họ. Viết tiếng Việt mà, thế nào cũng được. Giả sử phải viết một bản tuyên ngôn bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh chắc ông Thiệu sẽ thận trọng hơn nhiều.

Tôi không trách riêng ông Thiệu, bởi vì đại đa số người Việt đều xử sự như thế, kể cả những người không biết một ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng Việt. Năm 1974, tôi nhận dạy kinh tế cho một trường đại học tại Sài Gòn. Trước khi bắt đầu, tôi hỏi một số giáo sư dạy kinh tế cho tôi xem những bài đã được chấm đậu những năm trước. Mục đích của sự tham khảo này chỉ là để xem trình độ tiếp thu của sinh viên về môn kinh tế như thế nào. Nhưng tôi lại khám phá ra một sự kiện khác, kinh khủng hơn nhiều. Các sinh viên ở năm cuối cùng, sắp tốt nghiệp, hoàn toàn không biết viết tiếng Việt. Họ viết những câu rất dài và luộm thuộm, sai văn phạm, sai chính tả, sai cả nghĩa của từ ngữ. Bực bội quá tôi phải dọa các sinh viên là sẽ không chấm những bài viết sai tiếng Việt. Rồi tôi đặt ra một qui luật có thể là hơi quá đáng: mỗi bài sẽ được chấm trên 20 điểm, 10 điểm trên ngữ pháp, 10 điểm về nội dung, nhưng nếu bài không đủ 5 điểm về ngữ pháp thì sẽ không được chấm phần nội dung nữa. Biện pháp quá khích đó có lẽ đã có tác dụng làm các sinh viên coi trọng Việt văn hơn.

Trong các đơn xin việc tại Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín hay những đơn khiếu nại tại Bộ Kinh Tế, tôi gặp vô số đơn “Thưa ông…, nguyên tôi là….” Tại sao lại “nguyên”? Chưa kể “xin cứu xét cho chúng tôi được dễ dãi”, v. v…. Đơn thường do những người tốt nghiệp đại học viết. Ngay cả những bài nghị luận chính trị trên báo chí, nhiều khi cũng không thể tìm ra chủ từ, động từ, túc từ. Ngay những nhà văn cũng không ngần ngại viết “xử dụng”, “giòng sông”, “dỗi dãi”, “yên tỉnh”, “đấu tranh dành tự do dân chủ”. Một biểu ngữ lớn trong cuộc mít-tinh lớn: “Cương quyết xiết chặc hàng ngủ…”. Những lỗi chính tả, và ngay cả văn phạm, nhiều khi cũng có thể bỏ qua được, điều khó chịu nhất là nhiều khi đọc đi đọc lại vẫn không biết tác giả định nói gì. Đành phải đoán mò.

Viết đã ẩu, đọc lại càng ẩu hơn. Anh em TL chúng tôi đã là đối tượng của vô số bài đả kích vì lập trường Hòa Giải và Hòa Hợp Dân Tộc. Chúng tôi đã mất rất nhiều thì giờ để giải thích thế nào là hòa giải dân tộc, thế nào là hòa hợp dân tộc, tại sao lại phải hòa giải trước, hòa hợp sau v.v… Vậy mà trên 90% những bài đả kích chúng tôi vẫn nói chúng tôi là nhóm chủ trương “hòa hợp hòa giải”, nhiều bài còn nói chúng tôi chủ trương “hòa hợp hòa giải dân tộc với cộng sản”! Đọc ẩu trước khi lên án đã là tệ, có người còn không đọc. Một vị ở Canada viết cho chúng tôi một bài với tựa đề “Trả lời lập trường hòa hợp hòa giải của TL”, vạch ra thái độ ngây thơ ấu trĩ của chúng tôi. Một câu làm cho chúng tôi sửng sốt: vị này cho biết chưa hề đọc TL bao giờ, mà chỉ được biết tới lập trường của chúng tôi qua những bài đả kích.

Cái vòng luẩn quẩn là người Việt viết luộm thuộm khó hiểu, người đọc kỹ cũng không thể hiểu, nhưng người đọc không cần đọc kỹ mà vẫn trả lời một cách cũng hồ đồ, cũng luộm thuộm khó hiểu không kém. Phải nhìn nhận một sự thực đau lòng: chúng ta là một dân tộc không biết đọc, không biết viết, và không biết nói.

Tiếng Việt là phương tiện trao đổi giữa chúng ta. Phương tiện ấy mà hư hỏng thì chúng ta không hiểu được nhau như khi nói chuyện qua một đường điện thoại đầy nhiễu xạ. Tiếng mẹ đẻ nếu không phải là ngôn ngữ duy nhất thì cũng vẫn là ngôn ngữ dễ sử dụng nhất cho mỗi người, vì nó hợp với tâm hồn và bản tính. Đã không thạo tiếng Việt thì dù có học một ngôn ngữ khác công phu tới đâu chúng ta vẫn chỉ là những người truyền đạt kém cỏi.

Mà tiếng Việt có khó gì đâu, nó phù hợp với cách suy nghĩ của ta. Chỉ cần lưu ý một chút chúng ta sẽ có thể truyền đạt và lãnh hội mọi thông điệp một cách dễ dàng. Lý do căn bản có lẽ là vì ta không yêu nước đầy đủ để có thể quí trọng những tài sản của đất nước. Hay vì chúng ta thiếu tự hào dân tộc cho nên không nhìn những di sản của đất nước một cách trân trọng.

Tiếng Việt tuy không khó nhưng cũng không dễ. Nó có khả năng chuyên chở mọi thông điệp, mọi ý niệm, dù là văn hóa, nghệ thuật, chính trị, kinh tế, triết học, khoa học, kỹ thuật. Nó có thể và phải được coi là nhịp cầu nối người Việt chúng ta với nhau, cho phép chúng ta trao đổi với nhau, hiểu nhau, chỉ bảo cho nhau, để quí trọng nhau và cùng nhau xây dựng một tương lai Việt Nam chung.

Nếu tiếng Việt ta chưa hoàn chỉnh thì ta cần cải thiện và phong phú nó – thêm vào một số âm, chấp nhận thêm một số từ đa âm, chế ra một số tiếng mới cho những ý niệm mới – rồi tiếp tục phát huy nó. Ngôn ngữ là một cố gắng sáng tạo không ngừng. Tiếng Pháp được coi là một ngôn ngữ hoàn chỉnh và người Pháp cũng có tiếng là dân tộc hoạt bát nhất thế giới, nhưng họ luôn luôn mài dũa ngôn ngữ của họ. Hồi làm tham vấn cho công ty xe hơi Renault của Pháp, tôi được chứng kiến một biện pháp bảo vệ ngôn ngữ rất gay gắt. Ông chủ tịch tổng giám đốc Raymond Lévy, mặc dầu đang điên đầu với tình trạng thua lỗ trầm trọng, vẫn còn đủ tỉnh táo để nhận xét rằng các văn kiện nội bộ không được soạn thảo một cách lưu loát và sáng sủa. Ông cho rằng đó là một trong những nguyên nhân đưa đến thua lỗ. Ông ra một thông cáo cho tất cả các cấp lãnh đạo, cho biết rằng từ nay ông dành quyền trả lại người gởi mà không nêu lý do tất cả những văn thư không được soạn thảo bằng một tiếng Pháp tuyệt đối hoàn chỉnh. Không phải là ông không biết lo những vấn đề khác ông cố gắng lắm, bằng cớ là xe hơi Renault nổi tiếng là loại xe kém phẩm chất nhất, sau năm năm dưới quyền lãnh đạo của ông đã trở thành những chiếc xe nổi tiếng là tốt và bền bậc nhất châu Âu. Hãng Renault từ một hãng xe hơi lỗ nặng nhất châu Âu trở thành một hãng có lời, và gần đây đã sát nhập hãng Nissan một thời lừng lẫy của Nhật.

 

Biên tập: Anphong

Leave a Reply